ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
DƯƠNG
THỊ HOÀN
SỰ VẬN ĐỘNG TƯ TƯỞNG NHÀN
TỪ THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI ĐẾN THƠ NÔM NGUYỄN BỈNH
KHIÊM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121
LUẬN VĂN
THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG THÁI
Thái Nguyên, 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu độc lập của tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nào khác.
Các thông tin, số liệu trích dẫn
trong quá trình nghiên cứu đều được ghi rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2013
|
Tác giả luận văn
Dương Thị Hoàn
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được
hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu lí luận và tích lũy
kinh nghiệm thực tế của tác giả. Những
kiến thức quý báu mà các thầy cô giáo truyền thụ, định hướng đã làm sáng
tỏ những ý tưởng, tư duy của tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn
này.
Nhân dịp hoàn
thành luận văn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, kính trọng sâu sắc tới TS. Phạm Thị Phương Thái – Trưởng khoa
Văn – Xã hội, Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân
thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Ban chủ nhiệm khoa Sau
đại học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện
luận văn.
Cuối cùng tôi xin
chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã động viên, giúp
đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2013
Tác giả luận văn
Dương Thị Hoàn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................... 14
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 15
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 15
6. Đóng góp của đề tài............................................................................... 15
7. Kết cấu của đề tài.................................................................................. 16
NỘI DUNG .............................................................................................. 17
Chương 1. TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ - XÃ HỘI, VĂN HÓA CHI
PHỐI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG “NHÀN” TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN BỈNH
KHIÊM...................................................................................................... 17
1.1. Tư tưởng “nhàn” trong văn học trung đại........................................... 17
1.2. Đôi nét phác họa về thời đại, con người, sự
nghiệp của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm............................................................................................... 27
1.3. Vấn đề tồn nghi về văn bản Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập 38
Chương 2. “NHÀN” TRONG QUỐC ÂM THI TẬP – QUAN NIỆM SỐNG CỦA CÁI TÔI CÔ ĐƠN............................................................................................ 40
2.1. Thơ “Nhàn” Nguyễn Trãi – sự tiếp nối mạch
nguồn thơ “nhàn” trung đại 40
2.1.1. Người ẩn sĩ và cuộc sống điền viên, đạm
bạc................................... 40
2.1.2. Người ẩn sĩ say đắm những thú chơi tao
nhã, thanh cao................. 51
2.1.3. Người ẩn sĩ đối lập, xa lánh những đua chen chốn quan
trường..... 54
2.2. Chữ “nhàn” – Nơi ẩn chứa những nỗi niềm
riêng tư của Nguyễn Trãi 60
2.2.1. “Nhàn” là một mặt của những mâu thuẫn
trong con người Nguyễn Trãi 60
2.2.2. "Nhàn" là một sự lựa chọn bất
đắc dĩ của Nguyễn Trãi................... 63
2.2.3.
“Nhàn” – một giải pháp an ủi trái tim cô đơn................................. 69
Chương 3. “NHÀN” TRONG BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP – TRIẾT LÝ SỐNG GIỮA THỜI LOẠN................................................................................... 74
3.1. Dấu ấn thơ “nhàn” trung đại trong thơ Nôm
Nguyễn Bỉnh Khiêm..... 74
3.1.1. Hòa hợp với thiên nhiên thanh sạch................................................ 74
3.1.2. "Nhàn" trong xu thế đối lập
công danh, phú quý............................ 78
3.2. “Nhàn” – triết lý sống của con người trong
thời loạn.......................... 80
3.2.1. Triết lý “vô sự” của Nguyễn Bỉnh Khiêm........................................ 80
3.2.2. "Nhàn", vô sự - chuẩn tắc đạo
đức trong thời loạn.......................... 87
KẾT LUẬN............................................................................................... 98
THƯ MỤC THAM KHẢO...................................................................... 101
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do khoa học
Tư tưởng là một
hệ thống các mục đích và quan niệm sống giúp điều chỉnh mục tiêu, dự tính và
hành động của con người, bao gồm những quan điểm và ý nghĩ chung đối với hiện
thực khách quan và đối với xã hội. Như vậy, tư tưởng luôn là con đẻ của một xã
hội nhất định. Tư tưởng của một thời đại hay của mỗi cá nhân đều được nảy sinh
và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội thời đại đó.
Lịch sử ở mỗi
giai đoạn luôn sản sinh ra những cá nhân ưu tú hội tụ những giá trị tư tưởng
của thời đại. Nhìn vào lịch sử hơn mười thế kỉ thời trung đại của dân tộc,
chúng ta không thể không nhắc đến những cống hiến to lớn về văn hóa, tư tưởng của
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nếu như tiên sinh Nguyễn Trãi được ngợi ca là
Thái Sơn, Bắc Đẩu của rừng Nho Việt thì hậu bối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được
đánh giá là “cây đại thụ rợp bóng đến một thế kỉ, một thế kỉ lắm biến cố nhất
trong lịch sử Việt Nam” [14, 131]. Tư tưởng của các ông đã góp phần không nhỏ
trong việc tạo nên diện mạo tư tưởng của dân tộc ta trong hai thế kỷ XV, XVI.
Tuy có những đóng góp lớn về mặt tư tưởng nhưng Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh
Khiêm không để lại những tác phẩm nghiên cứu hay lạm bàn về phương diện này. Tư
tưởng của các ông chủ yếu thể hiện qua những sáng tác văn học. Do vậy, tìm hiểu
những sáng tác thơ ca của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong các
phương thức tiếp cận tư tưởng của hai ông.
Thơ Nôm là một
thành tựu rực rỡ của nền thi ca dân tộc. Trần Đình Sử cho rằng: “Với sự ra đời
của thơ Nôm, phạm vi và khả năng biểu hiện của con người trong thơ được mở rộng
về phía riêng tư, trần tục và ít quan phương” [34, 215]. Trên hành trình phát
triển của dòng thơ này, Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi
của Nguyễn Bỉnh Khiêm xứng đáng là hai tập thơ Nôm “đại thành” của thi ca Việt
Nam trung đại, đồng thời là những di sản quý giá của nền văn hóa, văn học dân
tộc. Với hai tập thơ, bức tranh thế giới tâm hồn, tư tưởng của tác giả đã được
thể hiện một cách phong phú, sinh động bằng chính tiếng nói của dân tộc. Qua
tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy Quốc âm thi
tập và Bạch Vân quốc ngữ thi có
khá nhiều điểm gần gũi. Trong đó, sự gặp gỡ ở tư tưởng “nhàn” là một vấn đề khá
nổi bật. Bên cạnh những tương đồng nhất định, tư tưởng sống “nhàn” của Nguyễn Trãi
và Nguyễn Bỉnh Khiêm cơ bản có sự khác biệt. Nguyễn Trãi sống “nhàn” để kiếm
tìm sự thanh sạch của tâm hồn và an ủi trái tim cô đơn. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng
tìm đến “nhàn” để di dưỡng tinh thần. Nhưng không dừng lại ở đó, ông đã nâng tư
tưởng này thành một triết lý sống, tuyên truyền cho mọi người nhằm hóa giải
những tranh giành, ganh đua trong xã hội. Điểm khác biệt ấy cho thấy sự vận
động của tư tưởng “nhàn” từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sự vận động này
chắc hẳn đã chịu ảnh hưởng từ những biến thiên lớn lao của bối cảnh xã hội nước
ta giữa hai thế kỷ XV, XVI. Đây chính là điểm thu hút chúng tôi lựa chọn đề tài
“Sự vận động tư tưởng “nhàn” từ thơ Nôm
Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm”.
1.2. Lý do thực tiễn
Với vị trí quan trọng
trong nền văn hóa, văn học nước nhà, sáng tác của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã được lựa chọn trong chương trình đào tạo ở các cấp học từ phổ thông
cho đến chuyên nghiệp. Thực hiện đề tài, chúng tôi mong muốn góp thêm một tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy những sáng tác của
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Lịch sử nghiên cứu tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi
Quốc âm thi tập là tập thơ mở đầu cho nền thi ca
sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc và cũng là “tập thơ Nôm đoản thiên có số lượng
nhiều bậc nhất trong nền thi ca cổ điển dân tộc” [32, 29]. Có vị trí quan trọng
và vinh dự như vậy nên tập thơ đã thu hút được sự quan tâm của rất đông đảo các
nhà nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước, trong đó phải kể đến những tên
tuổi như: Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Đình Chú, Hoài Thanh, Lã Nhâm Thìn, Phạm Luận,
Lê Trí Viễn, Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn, Trần Ngọc Vương, N.I. Niculin... Có
thể nói với đội ngũ hùng hậu những tài năng nghiên cứu, phê bình, dường như tất
cả những vấn đề về các phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tập thơ đã
được các nhà nghiên cứu khai phá. Trong đó vấn đề tư tưởng sống “nhàn” cũng đã
được nhiều tác giả đề cập.
Trong cuốn Văn chương Nguyễn Trãi, tác giả Bùi Văn
Nguyên đã tìm hiểu về Nguyễn Trãi trên tất cả các phương diện thời đại, con
người, văn chương. Ông khẳng định “nhập thế và xuất thế” là một trong bốn nội
dung chính của thơ văn Nguyễn Trãi. Bùi Văn Nguyên cho rằng “xuất thế” đối với
Nguyễn Trãi chỉ là “sự tạm lánh mình để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu khác
sau khi chiến đấu thất bại. Trong chừng mực này, xuất thế là một sự chuyển
mình, tất nhiên đầy khó khăn gian khổ, từ một giai đoạn nhập thế này sang một
giai đoạn nhập thế khác” [28, 226].
Nghiên cứu tư
tưởng Nguyễn Trãi trong tương quan với các hệ tư tưởng Phương Đông, đặc biệt
Nho giáo, trong bài nghiên cứu Nguyễn
Trãi và Nho giáo, Trần Đình Hượu đã chỉ ra rằng: Trong thơ chữ Hán và thơ
chữ Nôm của Nguyễn Trãi “hầu hết ca tụng cảnh nhàn, ca tụng cảnh đẹp thiên
nhiên, mối đồng tình với những con người thanh cao biết coi thú nhàn dật là quý,
ngàn vàng khó đổi được” [32, 117]. Nhưng ông cũng khẳng định: Việc tỏ ra đắc
chí với thú “nhàn” của Nguyễn Trãi chỉ là biểu hiện bên ngoài còn bên trong vẫn
hừng hực một tấm lòng ưu ái. Sau những phân tích, Trần Đình Hượu kết luận: “Dằn
vặt về hành hay chỉ, xuất hay xử, nhàn dật vì mình hay ưu ái vì đời diễn ra ở
ông thành một cuộc đấu tranh giữa tư tưởng Nho gia và tư tưởng Lão – Trang...
Nhưng về căn bản, Nguyễn Trãi vẫn là Nho chứ không phải Lão – Trang” [32, 122].
Cùng hướng nghiên
cứu tư tưởng của bậc đại thi hào Nguyễn Trãi trong mối quan hệ với tam giáo, ở
bài viết Tư tưởng của Nguyễn Trãi, Nguyễn
Thiên Thụ đã chỉ ra rằng: Tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi được khơi nguồn từ tư
tưởng Lão – Trang. Trong một bài nghiên cứu khác - Ảnh hưởng và địa vị của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam, ông cho
rằng “nhàn” là một trong những đề tài chính của Quốc âm thi tập: “Tư tưởng của Nguyễn Trãi là tổng hợp tư tưởng Nho
– Lão – Phật. Những ý tưởng, những đề tài trong Quốc âm thi tập, như trung hiếu, nhàn lạc, nhân tình thế thái đã
được Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ thiết tha nói đến” [32, 1113]. Như vậy, không chỉ khẳng định “nhàn lạc” là một đề tài
quan trọng trong Quốc âm thi tập,
Nguyễn Thiên Thụ còn chỉ ra sự tiếp nối của tư tưởng này ở các tác giả trong
giai đoạn văn học kế tiếp như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ.
Cũng trên hành
trình tìm hiểu về vấn đề sống “nhàn” trong thơ văn Nguyễn Trãi, với bài viết Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ
Nôm, nhà phê bình văn học Hoài Thanh khẳng định: “Thơ Nguyễn Trãi ca ngợi
cuộc sống ẩn dật không biết bao nhiêu lần... Nhưng chúng ta cần hiểu hết tấm
lòng của người xưa. Nguyễn Trãi ca ngợi là ca
ngợi thật, ông tha thiết muốn được sống ở nơi quê hương yêu dấu. Nhưng đó chưa
phải niềm thiết tha lớn nhất của ông” [32, 817]. Từ việc đặt những vần thơ “nhàn”
của Nguyễn Trãi cạnh một vài câu trong bài biểu tạ ơn khi được Lê Thái Tông mời
ra làm việc trở lại, Hoài Thanh cũng cho rằng “những lời thơ nhàn kia chỉ là
lời tự mình an ủi mình trong cảnh thanh nhàn bất đắc dĩ” [32, 822]. Tuy “sống
trong cảnh thanh nhàn với ông (Nguyễn Trãi) là chuyện cùng bất đắc dĩ. Nhưng
cùng bất đắc dĩ mà vẫn vui. Vui thật sự” [32, 823].
Tương đồng với
các ý kiến trên, trong bài viết Con người
cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, một mặt Trần Đình Sử cho rằng: Nguyễn
Trãi “ao ước sống nhàn trong một thế giới vô kỷ, vô công, vô danh, “tề thị
phi”, “tề vạn vật” như Trang Tử” [32, 838]. Mặt khác, ông cũng nhận thấy dù
Nguyễn Trãi chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão – Trang nhưng thực chất: “Mâu
thuẫn thường trực của Nguyễn Trãi là mâu thuẫn giữa xuất và xử, lánh trần hay
nhập thế... Đây là vấn đề đặt ra thường xuyên cho nhà nho xưa. Nhưng với Nguyễn
Trãi thì vấn đề trở thành day dứt, đau đớn” [32, 839].
Thiên về ý kiến
cho rằng tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi là sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão –
Trang, bài viết Nhà tư tưởng và nhà nghệ
sĩ trong Quốc âm thi tập của Trần Ngọc Vương khẳng định trong Quốc âm thi tập có hình ảnh của một “nhà
tư tưởng của triết học Lão – Trang và người nghệ sĩ ca tụng thú thanh nhàn, hòa
mình vào tạo vật” [48, 244]. Tác giả cũng chỉ ra trong tập thơ quốc âm này “có
đến mấy chục hình ảnh quen thuộc cứ lặp đi lặp lại, để cùng khẳng định một tư
tưởng: hãy yên lòng, hãy hư tâm đi, để mà sống thanh nhàn, để cho “Tính ắt nhiễm cùng bầy mộc thạch” [48, 244].
Tư tưởng ấy là một “cách xử sự” của Nguyễn Trãi trước sự hiểm hóc của hoạn lộ,
sự đen bạc của lòng người.
Cũng tìm hiểu về tư tưởng “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi, nhưng đi theo
một hướng lý giải khác, trong bài viết Về
cảm quan Phật giáo trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Hữu Sơn chỉ ra rằng:
“Trong thực chất, Nỗi niềm tiêu sái lòng
ngoài thế, tự đặt mình ra ngoài vòng danh lợi dường như đã là một chất sống
trong tâm tư Nguyễn Trãi và dường như có sự gặp gỡ, thông kênh với cái bình
lặng, an nhiên siêu thoát của nhà Phật. Do đó, nhiều khi những yếu tố chỉ tư
tưởng Phật giáo như ẩn cả (đại ẩn, đại thừa) hay là tiên bụt cũng chỉ được coi
là cái cớ, là phương tiện, một phương tiện trong tương quan với chủ thể đang
truy tìm những giây lát “tiêu sái”, “thú an nhàn”, lòng thơm” [31, 164].
Nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn trong bài viết Bi kịch tinh
thần của nhà nho Việt Nam với tính cách là một nhân vật văn hóa khẳng định:
“Trong thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán, đặc biệt là thơ chữ Nôm, nhà thơ cực tả cuộc
sống ẩn dật với sự thanh bạch, đơn sơ, giản dị mà không hề phàn nàn vì cái
nghèo, cái đói” [42, 216]. Đồng thời, tác giả cũng đã chỉ ra những nguyên nhân
sâu xa về mặt xung đột văn hóa đã dẫn đến “tâm sự đau buồn và nỗi cô đơn vô bờ
bến” của Nguyễn Trãi.
Tuy có nhiều cách
nhìn nhận về chữ “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi nhưng tựu chung các nhà
nghiên cứu đều cho rằng đó là sự “nhàn” bất đắc chí. Đây chính là định hướng
cho chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi.
2.2 Lịch sử nghiên cứu tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Chỉ đứng sau hai
tập thơ Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập, thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm – Bạch Vân quốc ngữ thi tập
giữ một vị trí quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc. Lịch sử nghiên cứu,
phê bình văn học nước nhà đã có số lượng tương đối lớn những công trình nghiên
cứu về Bạch Vân quốc ngữ thi tập,
tiêu biểu là những bài nghiên cứu của các tác giả: Đinh Gia Khánh, Bùi Văn
Nguyên, Phan Huy Lê, Lê Trọng Khánh, Lê Anh Trà, Nguyễn Huệ Chi, Trần Đình
Hượu, Trần Quốc Vượng, Trần Thị Băng Thanh, Bùi Duy Tân, Lê Trí Viễn, Lã Nhâm
Thìn, Phạm Luận, Nguyễn Hữu Sơn, N.I.Niculin... Khi tìm hiểu Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chúng ta có
thể nhận thấy tư tưởng “nhàn” là một vấn đề nổi bật. Do đó, đã có khá nhiều tác
giả, nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này.
Tìm hiểu thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả Đinh Gia Khánh trong bài
viết Nguyễn Bỉnh Khiêm và tấm lòng lo
trước thiên hạ đến già chưa nguôi cho rằng tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm gắn với “quan niệm về một phẩm chất cao khiết trong xã hội mà ông cho là
đục lầm, về một thái độ tự chủ trong một cõi đời mà ông cho là hỗn loạn, về một
chỗ đứng vững vàng trong một thời thế mà ông cho là đảo điên. Đó là đạo lí của
người trí thức có tâm huyết ngày xưa muốn tự giữ mình, muốn tự trọng khi phải
chấp nhận sự bất lực trong việc cải tạo hoàn cảnh” [39, 279]. Từ những luận
điểm trên, Đinh Gia Khánh khẳng định “nhàn” chính là phương thức giữ gìn phẩm
tiết của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời đại loạn lạc. Đó là “đạo lí của người trí
thức”.
Nhà nghiên cứu
Phạm Luận với bài viết Thơ nhàn của Nguyễn
Bỉnh Khiêm cho rằng: “Thơ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thường có giọng đối
thoại, biện bạch, tranh luận. Điều đó đều có liên quan đến việc dạy đời” [39, 361].
Tác giả chỉ ra các nội dung cơ bản của chữ “nhàn” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bao gồm: Thứ nhất, sống “nhàn” là sống có hạnh phúc của bậc trí giả. “Hạnh phúc do trị được cái bệnh của
bản thân (y ngô), cái bệnh cố hữu tham công danh của người nho sĩ... Hạnh phúc
vì được làm chủ bản thân, điều mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thường gọi là tự tại” [39, 361].
Thứ hai, sống “nhàn” là lối sống của bậc hiền nhân: “Người sống nhàn, sống vô
sự (có thể nói vô sự là hạt nhân của tư tưởng nhàn) vì ngăn được lòng tư dục vị
kỷ xấu xa, một việc cực kỳ khó khăn, do đó xứng đáng được tôn là bậc thánh
hiền” [39, 362]. Thứ ba, chữ “nhàn” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm “được nâng lên
thành một chuẩn tắc đạo đức. Nó là một chuẩn tắc cần thiết đề ra trong thời
nguy” [39, 362]. Như vậy, tác giả đã đưa ra những luận điểm khá thuyết phục về
đặc điểm thơ “nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những luận điểm của tác giả sẽ là cơ sở
để chúng tôi tiếp tục triển khai, chứng minh thơ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
là một triết lí sống, một chuẩn tắc đạo đức định hướng hành vi của con người
trong xã hội loạn lạc.
Phát triển và cụ
thể hóa luận điểm khoa học từ bài viết của tác giả Phạm Luận, Nguyễn Phạm Hùng
với bài viết Những xung đột nghệ thuật và
tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định tư tưởng “nhàn” đã được
Nguyễn Bỉnh Khiêm nâng lên thành một phạm trù đạo đức. Nguyễn Bỉnh Khiêm mong
muốn dựa vào lối sống hòa, tri túc, trung dung, sống nhàn “nhằm cứu vãn và duy
trì trật tự phong kiến chính thống đang bị phá hoại” [39, 367]. Tuy nhiên, tác
giả cũng cho rằng ước muốn đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang tính chất “không tưởng”,
là “sự xung đột giữa tư tưởng luân lý đó với khả năng thực hiện nó trong thực
tế” [39, 370].
Tác giả Nguyễn
Huệ Chi, trong bài viết Nguyễn Bỉnh Khiêm
– Nhìn từ một nhân cách lịch sử đến dòng thơ tư duy thế sự đã khẳng định:
“Một bộ phận quan trọng trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể bỏ qua
không nói tới, là những bài thơ nhàn” [39, 390]. Tác giả cho rằng: “Nhàn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là một hình thức biểu hiện của ung dung tự tại, của một
phong thái sống cởi mở, hồ hởi với tạo vật, biết gắn mình với thiên nhiên, sống
thuận theo quy luật của tự nhiên, hiểu được đến cội nguồn của cái đẹp chân chất
của sự sống, cái đẹp hồn nhiên của chuyển vần, thay đổi, luôn luôn diễn ra xung
quanh mình... nhàn theo phương thức này cũng là một phương pháp khai phóng nội
tâm, vì khi đem cái tôi đối diện với thiên nhiên cũng có nghĩa là tìm một con
đường thoát ra khỏi tình trạng phong bế của cái tôi trong cuộc đối thoại trường
kỳ với xã hội” [39, 391].
Kế thừa những
thành tựu nghiên cứu tư tưởng “nhàn” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm của các tác
giả đi trước, với luận văn Thạc sĩ Quan
niệm văn chương của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập và Bạch Vân quốc
ngữ thi, Hoàng Mạnh Hùng khẳng định: Tư tưởng “nhàn dật” là một nội dung cơ
bản trong quan niệm văn chương của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác giả cũng chỉ ra hai
phương diện cơ bản của tư tưởng “nhàn” được biểu hiện trong thơ văn Nguyễn Bỉnh
Khiêm: Thứ nhất, tư tưởng “nhàn” gắn với nội dung khẳng định cuộc sống an bần
lạc đạo. Thứ hai, tư tưởng “nhàn dật” gắn với việc chiêm nghiệm lẽ biến dời của
nhân sinh vũ trụ. Qua đó, tác giả đã phần nào chỉ ra tính triết lý thể hiện
trong tư tưởng “nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đi
tìm nguồn gốc của tư tưởng “nhàn” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả Văn Tân
trong bài viết Nguyễn Bỉnh Khiêm cho
rằng tư tưởng “nhàn” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm ca tụng, chính là “một hình thức của
thái độ vô vi của tín đồ Lão” [39, 250]. Đó là một phương cách “để thuận theo
cái đạo tự nhiên và xã hội” [39, 250]. Chữ “nhàn” ấy, một mặt là “sự chờ đợi
của kẻ am hiểu việc đời và biết cách hành động ở đời. Đó không hề có nghĩa chán
đời, mà chỉ có nghĩa chờ thời” [39, 252]. Mặt khác còn cho chúng ta thấy “sự
bất lực của Nguyễn Bỉnh Khiêm nữa. Ông phải chờ thời là vì đẳng cấp của ông
không có khả năng hành động để xoay chuyển lại thời thế, cho nên phải ở vào cái
thế ngồi nhìn xem thế sự xoay vần” [39, 253].
Tương đồng ý kiến
với tác giả Văn Tân, Lê Trí Viễn trong Bạch
Vân quốc ngữ thi khẳng định: Tư tưởng nhàn tản, ưu du là một phương diện
của Bạch Vân quốc ngữ thi. Đồng thời
nhà nghiên cứu cũng chỉ ra cội nguồn tư tưởng này trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đó là: Sự bất lực trước sự khủng hoảng của xã hội đương thời; Sự pha trộn của
Lão học và Lý học, quan niệm thế giới một cách rất rộng rãi dẫn đến việc coi
chuyện đời trước mắt là không nghĩa lý gì, không bận nổi đến tâm linh mình... Từ
tư tưởng đó, nhà thơ không muốn đấu tranh mà để mặc người được thua với nhau,
còn mình thì yên phận với cuộc sống nhàn tản. Tuy nhiên Lê Trí Viễn cho rằng
lối sống “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là
một lối sống tiêu cực.
Trái với ý kiến
của Văn Tân và Lê Trí Viễn, tác giả Hà Như Chi với bài viết Luận về Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã chỉ ra
nguyên nhân dẫn dắt trạng Trình đến với lối sống “nhàn dật”. Tác giả cho rằng:
“Những sự thất bại ở đời chỉ là nguyên nhân phụ xô đẩy cụ đến cảnh nhàn một
cách mau chóng hơn, còn cái nguyên nhân sâu rộng, chính là cái xu hướng về nhàn
mà cụ đã nuôi nấng từ lâu trong tư tưởng [39, 470]. Hà Như Chi chỉ ra một đặc
điểm khá tiêu biểu trong thơ “nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Cái nhàn của cụ không
phải cái nhàn bất đắc dĩ mà là cái nhàn làm người ta toại chí đến cực điểm” [39,
470]. Từ đó, tác giả khẳng định: “Cái nhàn của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm vì thế đã
thành một cái nhàn lý tưởng. Đó cũng là cái nhàn kiểu mẫu” [39, 472]. Như vậy,
Hà Như Chi đã chỉ ra tư thế ung dung, tự tại, tận hưởng thú “nhàn dật” của
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tư thế chủ động, có nguồn gốc từ bản chất tư tưởng.
Kế thừa các công trình nghiên cứu trên, Vũ Thanh Huyền với luận văn Thạc
sĩ Hệ thống chủ đề trong Bạch Vân quốc
ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định “nhàn dật” là một chủ đề quan
trọng được thể hiện trong Bạch Vân quốc
ngữ thi tập. Đồng thời, tác giả luận văn
cho rằng: “Xét trong tiến trình văn học trung đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm không
phải là người đầu tiên quan tâm đến triết lý nhàn dật và đưa chữ nhàn vào trong
thơ của mình. Nhưng cho đến Nguyễn Bỉnh Khiêm thì chữ nhàn xuất hiện với một
sắc thái biểu hiện rõ rệt, sâu sắc hơn cả soi sáng quan niệm sống của một nhà nho
ưu thời mẫn thế, muốn đem sở học của mình phù nghiêng đỡ lệch, hành đạo cứu đời
nhưng chưa thực hiện được” [16, 51]. Nguyễn Thanh Huyền chỉ ra nguồn gốc của
thái độ sống “nhàn” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, một mặt là do những mâu thuẫn xã hội gay gắt, mặt khác vì
sống “nhàn” là sở thích nằm trong bản tính nhà thơ.
Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho
rằng tư tưởng “nhàn” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được hình thành nhờ sự nhận
thức sâu sắc trước thực tại xã hội rối ren đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm
đến “nhàn” với một tâm thế chủ động, ung dung, tự tại. Những ý kiến, nhận định
của các tác giả, đặc biệt, những luận điểm khoa học của tác giả Phạm Luận và
Nguyễn Phạm Hùng là cơ sở định hướng để chúng tôi thực hiện đề tài Sự vận động tư tưởng “nhàn” từ thơ Nôm
Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2.3 Lịch sử nghiên cứu tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi và Nguyễn
Bỉnh Khiêm trong cái nhìn đối sánh
Được hình thành
và phát triển trên cùng nền tảng văn hóa, văn học trung đại, thơ văn Nguyễn
Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm có khá nhiều điểm gặp gỡ, trong đó có sự gặp gỡ ở tư
tưởng “nhàn dật”. Do vậy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đặt
tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cái nhìn đối sánh.
Trần Đình Hượu trong
bài nghiên cứu Triết lý và thơ ở Nguyễn
Bỉnh Khiêm nhận định: “Thơ nói về quan niệm nhân sinh là một bộ phận quan
trọng trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó chính là cách lựa chọn lối sống
của tác giả. “Nổi bật là sự đối lập giữa công danh và nhàn dật, là triết lý tự
tại” [39, 129]. Đặt tư tưởng “nhàn”
của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tương quan so sánh với tư tưởng “nhàn” của Nguyễn
Trãi, Trần Đình Hượu cho rằng: “Nói về lẽ sống nhàn dật, thú vui nhàn dật, hai
người nói giống nhau, giống nhau đến cả chi tiết; thế nhưng Nguyễn Trãi không
sống triết lý ông nhàn như Nguyễn Bỉnh Khiêm” [39, 131]. Không chỉ so sánh với
Nguyễn Trãi, tác giả bài nghiên cứu còn đặt Nguyễn Bỉnh Khiêm vào tiến trình
lịch sử tư tưởng khu vực, thế giới. Từ đó, đưa ra kết luận có tính phát hiện và
giá trị khoa học cao: “Tượng số hay triết lý nhàn dật đều là những tư tưởng đã
có từ trước. Không chắc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cống hiến gì mới trong những
địa hạt đó. Thế nhưng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có
vai trò tiêu biểu, có thể là một cột mốc đánh dấu quan trọng” [39, 136]. Tác
giả cũng khẳng định: Trong lịch sử tư tưởng nước nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm không
phải là người đầu tiên đề cập đến triết lý “tự tại” nhưng “có lẽ đến Nguyễn
Bỉnh Khiêm, những cái đó mới không còn là cái ngẫu nhiên của một số ít người mà
thành cái chung của một đẳng cấp, có ý nghĩa xã hội” [39, 137]. Đây là một luận
điểm khá xác đáng và sẽ được chúng tôi làm rõ hơn trong luận văn này.
Trong bài viết Nhân cách một bậc cao sĩ, các tác giả Trường
Lưu, Phạm Vũ Dũng, Băng Thanh đã so sánh tưởng “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và
Nguyễn Trãi. Từ đó đưa ra nhận định: Tư tưởng “nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
và Nguyễn Trãi có nét tương đồng. Đó là thái độ đắm mình vào thiên nhiên, bầu
bạn với gió trăng, thơ, rượu.
Các tác giả Lê
Trọng Khánh, Lê Anh Trà trong bài viết Nguyễn
Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết lý đã nhận định: “Chữ nhàn là chủ đề chính của
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm” [39, 233]. Các tác giả đã chỉ ra “sự bất lực trước thời
cuộc”, sự am hiểu thời thế là nguyên nhân hình thành tư tưởng “nhàn dật” trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Cái bất lực của Nguyễn Bỉnh Khiêm trước thời cuộc đã tìm
được lối thoát trong triết lý nhân sinh xuất xử thể hiện bằng chữ nhàn” [39, 233].
“Thái độ sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một thái độ triết lý, bắt nguồn từ
sự hiểu biết quy luật thời thế của ông” [39, 232]. Đặt tư tưởng “nhàn dật” của
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tương quan so sánh, các tác giả đã chỉ
ra nét khác biệt: Với Nguyễn Trãi “cái ẩn dật chỉ là cái thế tạm thời, ông sống
vui với thiên nhiên để di dưỡng tâm thần, đợi lúc được vời lại lăn vào cuộc đời”
[39, 235]. “Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có những khía cạnh giống như
cái nhàn của các bậc tiền bối, (như tình yêu thiên nhiên, kinh thường công
danh, phú quý…) nhưng ở đây tư tưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cả một triết
lý nhân sinh, dựa trên vũ trụ quan có hệ thống, trở thành như một cái đạo sống,
phù hợp với hoàn cảnh và tâm lý sĩ phu lúc mà chế độ phong kiến đã ở trên con
đường suy biến” [39, 236].
Tiếp tục nghiên
cứu tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cái nhìn đối sánh với Nguyễn
Trãi, Trong bài viết Nguyễn Bỉnh Khiêm và
tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi, tác giả Bùi Duy Tân đã chỉ ra: “Thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói đến cảnh nhàn tản như trong thơ Nguyễn Trãi, nhưng
không chứa đựng khí vị u uất của một nhân cách lớn bị chèn ép, mặt khác lại
chứa đựng tâm sự chán nản về đại cục thiên hạ và những suy tư về triết lý” [39,
334].
Kế thừa và cụ thể hóa những
luận điểm của các tác giả đi trước về vấn đề nghiên cứu tư tưởng “nhàn dật” của
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới cái nhìn đối sánh, Hồ Thị Huế trong luận
văn Thạc sĩ “So sánh tư tưởng nhàn dật
của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân quốc
ngữ thi tập” đã chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong tư tưởng “nhàn
dật” của hai đại thi hào. Trong đó, tác giả luận văn cho rằng, điểm tương đồng
trong tư tưởng “nhàn dật” của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở việc
trở về với thiên nhiên, khẳng định cốt cách thanh cao của nhà nho; tuy thân “nhàn”
nhưng tâm không “nhàn”. Tác giả cũng chỉ ra ba điểm khác biệt trong tư tưởng
“nhàn dật” của hai ông. Thứ nhất, Nguyễn Trãi “nhàn” trong phong thái một nghệ
sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm “nhàn” trong phong thái một triết nhân. Thứ hai, tư tưởng
“nhàn dật” của Nguyễn Trãi biểu hiện thành xung đột xuất – xử, ở Nguyễn Bỉnh
Khiêm tư tưởng “nhàn dật” được biểu hiện nhất quán, thuận chiều. Thứ ba, Nguyễn
Trãi tiến đến chiều sâu cái “nhàn” quy ẩn của Nho gia, Nguyễn Bỉnh Khiêm vươn
tới tầm cao cái nhàn của Lão – Trang. Tác giả cho rằng: “Hai nhà thơ này có sự
khác biệt rõ nét trong cách bộc lộ tư tưởng nhàn dật. Nguyễn Trãi bộc lộ qua
những áng thơ trữ tình, Nguyễn Bỉnh Khiêm bộc lộ qua những bài thơ giàu màu sắc
triết lý” [11, 91]. Tác giả luận văn khẳng định: Nét khác biệt ấy có nguồn gốc
từ trong bản chất tư tưởng của hai thi hào. Nguyễn Trãi nổi bật trong phong
thái của một nghệ sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi bật trong phong thái một triết
nhân.
Như vậy, trên cơ sở tổng kết
những ý kiến, nhận định của các nhà nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các nhà
nghiên cứu đã có những cái nhìn tương đối khái quát về vấn đề tư tưởng “nhàn”
trong thơ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một số nhà nghiên cứu đặt tư
tưởng “nhàn” của hai thi hào dưới cái nhìn đối sánh. Tuy nhiên chưa có nhiều
bài nghiên cứu, công trình nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, phân tích một cách cụ
thể sự vận động của tư tưởng “nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Mặc dù vậy, những nhận định của các tác giả đi trước chính là chìa
khóa mở cửa và định hướng cho chúng tôi tìm hiểu vấn đề sự vận động của tư
tưởng “nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm một cách cụ
thể, toàn diện, hệ thống hơn. Thực hiện đề tài: Sự vận động của tư tưởng “nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm, chúng tôi mong muốn rằng đề tài sẽ cung cấp thêm một góc nhìn
về phương diện tư tưởng của các tác phẩm giá trị này. Đồng thời, bước đầu lý
giải nguyên nhân quá trình vận động, chuyển biến tư tưởng “nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn
Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới góc độ xã hội, thời đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng “nhàn” trong
thơ Nôm của Nguyễn Trãi và thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy được:
- Sự vận động của tư tưởng
này từ vấn đề quan niệm sống của cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đến vấn đề
triết lý sống của thời đại trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Bước đầu cắt nghĩa, lí giải
nguyên nhân của sự vận động đó.
- Khẳng định những đóng góp về mặt
tư tưởng trong sáng tác thơ ca của hai đại thi hào. Đồng thời phần nào xác định
sự vận động của tư tưởng “nhàn” trong văn học dân tộc từ thế kỉ XV đến thế kỉ
XVI.
Để
đạt được mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát,
thống kê, chỉ ra các biểu hiện của tư tưởng “nhàn” trong Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
- Phân tích các biểu hiện của tư
tưởng “nhàn” trong Quốc âm thi tập và
Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
- Chỉ ra sự vận động của tư tưởng
“nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Tìm hiểu đặc điểm lịch sử - xã hội,
văn hóa thế kỉ XV, XVI, những yếu tố cuộc đời của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh
Khiêm để bước đầu lí giải nguyên nhân của sự vận động.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Thực
hiện đề tài chúng tôi xác định: Tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi
và thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là đối tượng nghiên cứu chính của đề tài.
- Tác
phẩm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tư liệu chính để khảo sát, tìm hiểu.
Trong
một chừng mực nhất định, chúng tôi sử dụng một số tác phẩm thơ chữ Hán của Nguyễn
Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, một số sáng tác của Đào Uyên Minh, Mạnh Hạo Nhiên,
Lý Bạch, Vương Duy, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An... để liên
hệ, đối sánh nhằm có được cái nhìn đầy đủ về sự vận động của tư tưởng “nhàn” từ
thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Bên
cạnh đó, chúng tôi sử dụng một số tài liệu, bài nghiên cứu phê bình có liên
quan đến tư tưởng “nhàn” trong văn học nói chung và trong thơ văn Nguyễn Trãi
và Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương
pháp nghiên cứu lý thuyết: tổng hợp những vấn đề lý thuyết có liên quan đến tư
tưởng “nhàn” trong văn học trung đại.
-
Phương pháp thống kê, phân loại.
-
Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
-
Phương pháp tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm văn học.
-
Phương pháp tiếp cận xã hội học đối với tác phẩm văn học.
6. Đóng góp của đề tài
Đặt Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn
Bỉnh Khiêm trong sự đối sánh, chúng tôi hy vọng đề tài sẽ cung cấp cái nhìn rõ
ràng hơn về các đặc điểm, tính chất của tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn
Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan trọng hơn là thấy được sự vận động của tư tưởng
này từ vấn đề quan niệm sống của con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi đến
vấn đề triết lý sống của thời đại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời, bước
đầu lý giải nguyên nhân của sự vận động ấy từ góc độ xã hội, thời đại.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc
đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Tiền đề lịch sử
- xã hội, văn hóa chi phối sự hình thành tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chương 2: “Nhàn”
trong Quốc âm thi tập – quan niệm
sống của cái tôi cô đơn
Chương 3: “Nhàn” trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập – triết
lý sống giữa thời loạn
NỘI DUNG
Chương 1
TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ - XÃ HỘI, VĂN HÓA CHI PHỐI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG “NHÀN” TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1.1 Tư tưởng “nhàn” trong văn
học Trung đại
1.1.1 Nguồn gốc văn hóa, xã
hội của tư tưởng “nhàn”
1.1.1.1 Cơ sở văn hóa, tư tưởng
Nho giáo, Phật
giáo, tư tưởng Lão – Trang là những hệ tư tưởng phát triển mạnh mẽ ở các quốc
gia Đông Á. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa Trung Hoa và các
quốc gia lân cận, trong đó có Việt Nam bằng nhiều con đường (chủ động và bị
động), các hệ tư tưởng này đã có điều kiện du nhập và ảnh hưởng sâu sắc tới
nhiều phương diện của đời sống xã hội. Cùng với sự tác động mạnh mẽ đến các yếu
tố tư tưởng, chính trị, văn hóa, Nho giáo, Phật Giáo, tư tưởng Lão – Trang cũng
đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên tiến trình phát triển cũng như diện mạo,
đặc điểm văn học các quốc gia nằm trong từ trường chi phối của nó.
Trong ba học
thuyết, Nho giáo có tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn và đã trở thành ý thức hệ chính
thống của chế độ quân chủ phong kiến ở các quốc gia Đông Á. Điều này không chỉ
diễn ra ở Trung Hoa mà ở cả các quốc gia đồng văn khác. Ở Việt Nam, Nho giáo
dần chiếm ưu thế từ thế kỷ XIII, đạt đến vị thế độc tôn vào thế kỷ XV và luôn
giữ vai trò ý thức hệ chính thống trong suốt những thế kỷ tiếp theo của chế độ
phong kiến. Với vị trí tư tưởng chính thống, những yếu tố tư tưởng của Nho giáo
đã in dấu đậm nét trên nhiều phương diện của quá trình văn học dân tộc từ lực
lượng sáng tác, quan niệm thẩm mỹ, hình thức, thể loại đến nội dung tư tưởng...
Chính vì vậy, văn học trung đại Việt Nam còn được gọi với một cái tên gọi khác
– Văn học Nho giáo hay văn học nhà nho.
Nho giáo chủ
trương tinh thần “nhập thế” và xây dựng hình mô hình xã hội “đức trị”. Để thực
hiện, Nho giáo đề ra mẫu hình nhân cách lý tưởng - người quân tử với hai mặt không
tách rời: tu dưỡng bản thân và trị quốc an dân. Trong đó, tu dưỡng bản thân là kiểm
soát những bản năng thân xác để đạt đến trạng thái Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.
(Giàu sang không thể làm điều ham muốn bất chính, nghèo khó không thể chuyển
lay, quyền uy không thể khuất phục). Vấn đề “tu kỷ” của Nho giáo hướng nho sĩ
đến quan niệm coi thường phú quý, danh lợi. Đây cũng là một trong những căn
nguyên dẫn dắt nho sĩ tìm đến tư tưởng “nhàn” với những biểu hiện tương tự.
Không chỉ đặt ra vấn đề Tồn thiên lý, khử
nhân dục (Bảo tồn thiên lý, khử dục vọng bản thân), Nho giáo còn đặt ra vấn
đề hành xử của nho sĩ: Dụng chi tắc hành,
xả chi tắc tàng (được dùng thì ra làm việc, không được dùng thì lui về); Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc thiện
thiên hạ (Nếu đến mức bi đát nhất thì ta chỉ cần giữ cho bản thân mình được
thanh cao, nếu được tin dùng thì giúp mọi người thanh cao như ta vậy); Thiên hạ hữu đạo tắc hiện, vô đạo tắc ẩn
(Lúc thiên hạ có đạo thì ra mặt, lúc thiên hạ vô đạo thì ẩn). Những quan niệm
này tạo nên sự mềm dẻo, linh hoạt trong phép ứng xử của nho sĩ, tùy hoàn cảnh
mà hành đạo giúp đời hay “độc thiện kỳ thân”. Từ sự ứng xử linh hoạt đó đã làm
nảy sinh hai mẫu hình nhà nho: nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật. Trần Đình
Hượu cho rằng: “Người hành đạo và người ẩn đật là con sinh đôi, thay thế nhau
xuất hiện trong các tình thế khác nhau của xã hội nông thôn, cung đình cố hữu” [42,
192]. Như vậy, có thể khẳng định đường lối tu thân và vấn đề minh triết bảo thân (hiểu biết sâu rộng
để có thể bảo toàn tính mạng, danh dự), trở về, hòa mình với thiên nhiên, di
dưỡng tính tình, giữ gìn tiết tháo của nhà nho chính là nguồn gốc nảy sinh tư
tưởng “nhàn” trong văn học.
Nho giáo được đề
cao ở vị thế tư tưởng chính thống nhưng không phải vì thế mà các hệ tư tưởng
khác không còn đất dung thân. Trên thực tế, tư tưởng Lão – Trang (Đạo gia) vẫn
ăn sâu, bám rễ, tồn tại, phát triển trong xã hội. Với vai trò là một hệ tư
tưởng, tư tưởng Lão – Trang đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tầng lớp nho sĩ và để
lại dấu ấn trong văn học nghệ thuật. Trần Quốc Vượng khẳng định: “Ở Việt Nam,
ảnh hưởng của Đạo giáo triết học chủ yếu diễn ra ở tầng lớp nho sĩ” [50, 88]. Về
phương diện đạo đức học, Lão Tử cho rằng: Lòng tư dục của con người “hữu vi” là
nguyên nhân của cái ác. Vì vậy phải hạn chế, tiêu diệt cái “hữu vi”, thực hiện
cái “vô vi” – nghĩa là sống thuận theo tự nhiên, trở về với cái thuần phát,
nguyên sơ của tự nhiên. Kế tiếp tư tưởng của Lão Tử, Trang Tử trong Nam Hoa kinh quan niệm: Cuộc đời con
người như chiếc bóng, nhân sinh tựa giấc chiêm bao, sống chết như sự chuyển
dịch của bốn mùa. Do vậy, con người phải thuận theo tự nhiên. Từ đó, đề ra
phương châm sống “tri túc”, “tự lạc”, gạt bỏ danh lợi, diệt trừ dục vọng để đạt
đến “hư tâm” – cõi lòng trong thoáng. Quan niệm nhân sinh xem nhẹ công danh,
phú quý của Trang Tử là nguồn gốc xuất hiện tầng lớp “u nhân”, “ẩn sĩ” đông đảo
ở Trung Hoa và đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan niệm sống của tầng lớp nho sĩ
Việt Nam. Lối sống “tri túc”, “tự lạc” trở thành một phương tiện để nho sĩ ẩn
dật đạt đến trạng thái “nhàn” – sống hòa mình với thiên nhiên thanh sạch, gạt
bỏ lòng tư dục, ham muốn công danh.
Phật
giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Sau đó, nhanh chóng trở thành một tôn giáo có tầm
ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều quốc gia ở châu Á. Ở Việt Nam, Đạo Phật được du
nhập từ thời Bắc thuộc. Phật giáo chiếm vị thế quan trọng trong các thế kỷ X,
XI, XII, và phát triển đỉnh cao trở thành quốc giáo dưới thời Lý – Trần. Những
thế kỉ tiếp theo, dù không được xem là quốc giáo nhưng Phật giáo vẫn tiếp tục
phát triển trong lòng xã hội và ăn sâu vào tâm thức các tầng lớp nhân dân. Quan
niệm cuộc đời là bể khổ trầm luân; nhân sinh, vạn vật là “vô ngã”, “vô thường”,
Phật giáo hướng con người đến sự siêu thoát khỏi vòng “luân hồi” của số kiếp để
đạt đến cõi Niết Bàn – cõi “Không minh sáng”. Để đến được cõi Niết Bàn, con
người phải diệt được “tham”, “sân”,
“si”, giữ cho tâm hồn tĩnh tại, trong sáng, thoát khỏi những vướng bận
của “hồng trần”. Như vậy, xét về bản chất, Phật giáo là một tôn giáo, học
thuyết triết học quan tâm đến thân phận và hạnh phúc của con người. Trần Ngọc
Vương cho rằng: Khi Phật giáo vào Trung Hoa, tư tưởng giải thoát cái bản ngã
của Phật đã “phối kết” với lối sống “pháp tự nhiên, vô vi” của Đạo gia tạo ra
Thiền – “trạng thái tĩnh lự, sự suy nghĩ một cách tập trung trong sự tĩnh lặng
cao độ, lấy thanh tĩnh làm gốc” [11, 20]. Chính quan niệm này đã hướng con
người đến bản chất của chữ “nhàn”. Theo Giáo sư Minh Chi, Học viện Phật giáo
Việt Nam “Nhàn trong Phật giáo là không lụy công danh, không vướng tài sắc”[4].
Ba
học thuyết Nho giáo, Phật giáo, Lão – Trang đề ra những chuẩn mực đạo đức,
phương châm xử thế khác nhau. Nho giáo khuyến khích tinh thần nhập thế giúp
đời, Lão - Trang đề cao lối sống tiêu
dao, thoát tục, trở về với cái hồn hậu thuần túy của tự nhiên, Phật giáo chủ
trương siêu thoát. Tuy nhiên, do cùng hình thành trên nền tảng văn hóa, tâm lý
văn hóa Á Đông nên giữa chúng vẫn có những vùng giao thoa nhất định. Thực tế
tồn tại, phát triển của các học thuyết tôn giáo này đã diễn ra sự hòa nhập tạo
nên hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Trung
Hoa mà còn là một thực tế của bức tranh tư tưởng ở các nước Việt Nam, Nhật Bản,
Triều Tiên. Nho giáo được xem là học thuyết chính thống nhưng như nhiều công
trình nghiên cứu đã chỉ rõ: Nho giáo mà các triều đại phong kiến, trong đó có
Việt Nam đề cao, áp dụng không phải là Nho giáo nguyên thủy mà là Tống Nho
hay Lý học Trình Chu. Tống Nho dùng học
thuyết Khổng Mạnh làm nguồn gốc, tiếp thu thêm các yếu tố trong học thuyết tư
tưởng của Phật giáo, Đạo giáo. Thêm vào đó, quá trình tiếp nhận văn hóa của cha
ông ta cũng diễn ra một cách linh hoạt, mềm dẻo trong việc kết hợp các yếu tố
tích cực của văn hóa ngoại nhập với văn hóa dân tộc tạo nên bản sắc văn hóa
riêng. Do vậy, việc các nhà nho chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang, Phật giáo là một lẽ tất yếu. Trần
Ngọc Vương khẳng định: “Nhà nho ẩn dật là người chung huyết thống với Đạo gia.
Nhiều trường hợp thật khó xác định một người nào đó là nhà nho ẩn dật hay đạo
sĩ” [49, 72].
Như
vậy, có thể khẳng định sự kết hợp những yếu tố ứng xử linh hoạt của Nho giáo, tư
tưởng tiêu dao của Lão – Trang, tư tưởng siêu thoát của Phật là tiền đề văn hóa
góp phần tạo nên diện mạo của tư tưởng “nhàn” trong văn học trung đại.
1.1.1.2 Tiền đề lịch sử - xã hội
Nho giáo với tính
tích cực, có trách nhiệm với cuộc đời luôn mong ước xây dựng một mô hình xã hội
“đức trị”: “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu
Thuấn”. Lý tưởng của Nho giáo là đáng trân trọng. Nhưng xét về bản chất, mô
hình xã hội đó mang tính không tưởng “một sản phẩm của trí tưởng tượng, chưa và
không bao giờ tồn tại trong thực tế” [10, 14]. Bởi mâu thuẫn giữa quyền lợi của
giai cấp thống trị và các tầng lớp nhân dân lao động là khách quan, không thể
điều hòa. Sự va chạm giữa ước mơ, lý tưởng với bức tường hiện thực gây nên
những rạn nứt, đổ vỡ trong tâm hồn nhà nho. Từ đó dẫn đến tâm thế chán nản, đau
đớn giằng xé và dần dần hình thành mong ước quy ẩn, sống “nhàn” của tầng lớp
nho sĩ.
Mặc khác, như đã nêu ở mục 1.1.1.1, phương châm sống “hành
– tàng”, “xuất – xử”, “Thiên hạ hữu đạo tắc hiện, vô đạo tắc ẩn” là hai thế ứng
xử mang tính biện chứng của Nho giáo đã ăn sâu vào tâm thức và đã trở thành
chuẩn tắc trong cách hành xử của tầng lớp Nho sĩ. Như vậy, về cơ sở văn hóa xã
hội, có thể khẳng định “kiểu nhà nho ẩn dật thường xuất hiện khi nhà nước quân
chủ phong kiến không đáp ứng những điều kiện cơ bản để nho sĩ thực hiện nhiệm
vụ hành đạo của mình” [13, 26]. Ta có thể kể ra nhiều nguyên nhân dẫn đến việc
nhà nho quy ẩn, tìm đến cuộc sống “nhàn”, bên cạnh một số lý do liên quan đến
cá nhân nhà nho thì chủ yếu là do xã hội loạn lạc, triều chính rối ren, quyền
thần lũng đoạn, ngoại bang cai trị, triều đại cầm quyền mang tính ngụy triều...
Soi chiếu vào thực tế lịch sử phong kiến Việt Nam, các giai đoạn khủng hoảng
mạt triều (giai cuối các triều đại), đặc biệt thời kỳ thế kỷ XVI, XVII, đầu thế
kỷ XVIII ta sẽ thấy rõ điều này. Thực trạng xã hội lũng đoạn đó đã làm xuất
hiện hàng loạt những nho sĩ quy ẩn, tìm về với cuộc sống “nhàn” như: Chu Văn
An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Dữ,
Nguyễn Khuyến… Sự ảnh hưởng của yếu tố xã hội, thời đại đến tư tưởng “nhàn dật”
của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi sẽ làm rõ ở những phần sau, ở
đây chỉ xin nhắc đến như một minh chứng khẳng định thực trạng suy thoái, khủng
hoảng của xã hội phong kiến là một nguyên nhân thúc đẩy các nho sĩ tìm đến con
đường “độc thiện kỳ thân” xem “nhàn” như một lẽ sống.
1.1.1.3 Hình
tượng ẩn sĩ và thơ điền viên Trung Hoa với sự hình thành hình tượng nhà Nho ẩn
dật trong văn học trung đại Việt Nam
Sự
linh hoạt trong hành xử của Nho giáo được ứng dụng trong hoàn cảnh xã hội lũng
đoạn kết hợp với tư tưởng vô vi của Lão – Trang, tư tưởng siêu thoát của Phật
là cơ sở tư tưởng cho sự xuất hiện một lớp người ở ẩn lánh đời, xa rời hoạn lộ.
Lớp người này được gọi với những cái tên “u nhân”, “dật nhân”. Theo Trần Ngọc
Vương, ẩn sĩ bao gồm nhà nho ẩn dật và Đạo gia, “đích cuối cùng mà họ hướng tới
là tự do tinh thần, tách ra ngoài, hướng lên trên xã hội, tìm kiếm sự hài hòa
trong quan hệ với tự nhiên, vừa hướng tới thiên tính, thiên tâm” [49, 62]. Sự
xuất hiện của lớp người này đã soi bóng vào thi ca trở thành một hình tượng phổ
biến trong sáng tác của các nho sĩ – lực lượng sáng tác chủ yếu của văn học trung
đại.
Theo
các tài liệu nghiên cứu, ẩn sĩ Trung Hoa xuất hiện khá sớm với những “ông tổ”
như Bá Di, Thúc Tề, Vương Nghệ... Tuy có điểm chung ở ẩn, lánh đời nhưng diện
mạo của tầng lớp ẩn sĩ cũng hết sức phong phú, phức tạp với đủ kiểu người. Có
những ẩn sĩ bỏ vào núi sâu, tuyệt giao với thế giới loài người (Bá Di, Thúc Tề...),
có kẻ lang bạt, ăn mày ăn xin, giả dạng người điên (Sở Cuồng Tiếp Dư thời Xuân
Thu), có ẩn sĩ tha hóa, cơ hội, xu nịnh giai cấp thống trị (Chủng Phóng trong Tống
sử)... Mặt khác cũng có ẩn sĩ do bất đắc chí với thời cuộc nên tìm đến con
đường quy ẩn, sống nhàn nhã, sáng tác thơ văn, nghiên cứu học thuật, chọn con
đường “lập ngôn”. Phần đông những ẩn sĩ này, tuy ở ẩn nhưng vẫn mang nặng nỗi
niềm ưu tư vì dân vì nước... Diện mạo của tầng lớp ẩn sĩ rất phức tạp nhưng
chung quy lại, họ đều có cùng tâm sự bất đắc chí, sầu muộn mà không biết tỏ
cùng ai nên tìm về cuộc sống “nhàn dật”, bầu bạn với thiên nhiên, thơ, rượu...
Văn hóa, văn học Việt
Nam và Trung Hoa nằm trong từ trường chi phối của văn hóa Á Đông. Vì vậy, ở
Việt Nam, lớp người ẩn sĩ cũng xuất hiện và tồn tại như một loại hình nhân vật
văn hóa. Chính sự rối ren cuối thời Trần đã lưu lại Chu Văn An (1292 - 1370) - vị
ẩn sĩ đầu tiên của làng nho Việt; những năm đen tối dưới ách đô hộ của nhà
Minh, sự suy thoái của Lê triều làm xuất hiện hàng loạt các ẩn sĩ: Lý Tử Cấu,
Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Húc, Nguyễn Trãi... Bước sang thế kỷ XVI, trước thực
trạng xã hội chiến tranh, loạn lạc, tầng lớp ẩn sĩ gia tăng mạnh mẽ và trở
thành lực lượng sáng tác chủ yếu của văn học với những đại diện tiêu biểu như
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ... Chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa
Trung Hoa, hình tượng ẩn sĩ trong văn học trung đại Việt Nam có những nét tương
đồng nhất định với hình tượng ẩn sĩ Trung Hoa. Nhưng xét về cốt tủy bên trong, hình
tượng ẩn sĩ Việt Nam cũng có những nét riêng độc đáo. Có thể khẳng định “ Ẩn sĩ
Việt Nam, thường rất ít loại tiêu cực như ẩn sĩ Trung Hoa” [40, 15]. Nhìn vào
bức tranh ẩn sĩ Việt Nam, ta ít thấy bóng dáng của những ẩn sĩ ăn mày, điên
cuồng, cũng không có những ẩn sĩ cơ hội, xu nịnh, bám gót giai cấp thống trị.
Ẩn sĩ Việt Nam, phần đông là những trí thức mang tấm lòng vì dân, vì nước. Họ
thường tìm về cuộc sống ẩn dật để lánh tục, tránh hợp tác với kẻ thống trị chuyên quyền. Những nho sĩ như
vậy, ta có thể kể đến các tên tuổi như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Võ Trường Toản, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến... Nhìn chung, ẩn sĩ Việt
Nam không có xu hướng tìm kiếm sự thoát li tuyệt đối. Dù thân sống “nhàn” nhưng
tâm còn mang nặng nỗi ưu tư vì dân vì nước.
Song hành với sự
xuất hiện của tầng lớp ẩn sĩ Trung Hoa là sự nảy sinh trường phái thi ca lấy
cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, vẻ đẹp giản dị, thanh khiết của thiên nhiên làm
đối tượng chiếm lĩnh, miêu tả. Trường phái thi ca này được gọi với cái tên
“phái sơn thủy điền viên” – một trường phái thi ca phát triển mạnh mẽ dưới thời
Thịnh Đường (713 – 766) gắn với tên tuổi của Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy... Dựa
vào các tài liệu nghiên cứu, có thể khẳng định: “Thơ điền viên Trung Hoa được
khởi đầu từ Đào Uyên Minh (365 – 427), một nhà thơ đời Đông Tấn. Kế thừa và
phát huy truyền thống mĩ học ưa chuộng vẻ đẹp thiên nhiên có từ thời Ngụy Tấn
Nam Bắc triều, các nhà thơ điền viên đời Đường tiếp tục truy tầm cái “hình
thần”, “phong cốt” của vẻ đẹp tự nhiên. Qua
thơ điền viên, cảnh sắc tự nhiên, ruộng vườn thôn dã và bức tranh sinh hoạt
nông thôn trở thành phương thức biểu hiện tâm thức ẩn dật, thanh nhàn, thoát
tục của thi nhân” [8, 33]. Thi ca trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Đường thi. Vì vậy, cảm hứng “xuất thế’ trong thơ điền viên đã chi phối không
nhỏ đến cảm hứng sáng tác của các thi nhân Việt. Theo Đỗ Thị Hà Giang: Văn học
trung đại Việt Nam đã tiếp thu “ cái tinh túy nhất của dòng thơ này (thơ điền
viên), thể hiện trong một chữ nhàn” [8, 34]. Tuy vậy, xét về bản chất của chữ
“nhàn” trong văn học trung đại Việt Nam cũng không phải hoàn toàn là sự sao
chép nguyên bản chữ “nhàn” trong thơ điền viên Trung Hoa. Như trên đã nói, nho
sĩ ẩn dật Việt Nam phần đông là những trí thức bất đắc chí trước thời cuộc, dù
quy ẩn nhưng vẫn nặng lòng với nhân dân, đất nước. Do vậy, thơ “nhàn” của các
nho sĩ trung đại Việt Nam chưa đạt đến cảnh giới tối cao của tư tưởng “nhàn”,
chưa đạt đến trạng thái tịch diệt vô biên, vô vi, siêu thoát như chữ “nhàn”
trong thơ Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy.
1.1.2 Một số biểu hiện của tư tưởng “nhàn” trong
văn học trung đại
1.1.2.1 Một số cách hiểu về khái niệm “nhàn”
Theo cách định nghĩa của từ điển, “nhàn” là “có ít hoặc
không có việc gì phải làm, phải lo nghĩ” [2, 283]. Đây là cách hiểu thuần túy
về chữ “nhàn” trong đời sống hàng ngày. Các từ “an nhàn”, “thanh nhàn”, “nhàn
hạ”, “nhàn rỗi”, “nhàn cư”, “nông nhàn”... đều mang nội hàm trên.
Chữ “nhàn” trong quan niệm của Nho giáo không chỉ
mang nghĩa thuần túy như vậy. “Nhàn” ở đây được hiểu là một phương châm sống,
một chuẩn tắc trong hành xử của tầng lớp Nho sĩ. “Nhàn chính là để giữ tròn
thanh danh, khí tiết của bản thân trong thời trọc loạn. Nhàn không hoàn toàn là
sự trốn tránh thời cuộc bởi nhàn ở đây có nghĩa đối lập với công danh phú quý,
với dục vọng xấu xa. Nhàn là không để vật dục làm vẩn đục tâm hồn, không dính
vào việc cạnh tranh đua chen với đời” [10, 23]. Bùi Duy Tân định nghĩa: “Chữ
nhàn không phải là lười nhác, là hành động “đắp tai, cài trốc”, ăn không ngồi
rồi. Nhàn có nghĩa là giữ cho tâm hồn lúc nào cũng ở trạng thái yên tĩnh trong
trẻo, hài hòa. Nhàn còn là sự chấp nhận thuận theo lẽ tự nhiên, không đua chen,
giành giật, không vướng víu phải cái bả vinh hoa phú quý mà sống thỏa thích
trong cảnh trí non xanh nước biếc, bạn bè với trăng trong, gió mát, với lão già
thực, trẻ thơ hồn toàn, ấm áp tình người trong hương đồng gió nội, mây sớm
trăng khuya” [35, 322]. Như vậy, trong quan niệm Nho giáo, chữ “nhàn” được xem
như phép ứng xử với hoàn cảnh xã hội biến động, suy đồi, một thứ “minh triết
bảo thân” của tầng lớp Nho sĩ. Tuy nhiên, xét đến cùng của bản chất, chữ “nhàn”
trong quan niệm của Nho giáo cũng là một hình thức biểu hiện sự bất lực trước
hoàn cảnh, là sự phản kháng không cộng tác với thế lực thống trị. “Nhàn” chỉ là
nhàn hạ với danh lợi mà thôi, còn trong thâm tâm vẫn day dứt khôn nguôi nỗi
niềm vì dân, vì nước. “Nhàn” trong quan niệm Nho giáo chưa đạt đến sự tuyệt đối
như “nhàn” trong Đạo gia, Phật giáo.
Chữ “nhàn” trong quan niệm của
Đạo gia và Phật giáo là một trạng thái đạt đến cảnh giới tối cao, an tịnh, siêu
thoát của “hư tâm”, “tâm phật”. Đó là cái “nhàn” tuyệt đối: “Vong hồ vật, vong hồ thiên. Kì danh vi vong
kỉ, vong kỉ chi nhân, thị chi vị nhập vu thiên. (Quên thế giới bên ngoài,
quên cả trời, đó gọi là quên bản thân mình. Người quên bản thân mình gọi là
nhập vào cảnh giới trời)” [42, 448].
Như vậy, chữ “nhàn” trong Nho giáo, Đạo gia, Phật
giáo có những điểm phân biệt nhất định. “Nhàn” của các nhà nho là thứ “nhàn” một
nửa, thân “nhàn” nhưng tâm không “nhàn”, còn “nhàn” trong quan niệm của Đạo gia,
Phật giáo là chữ “nhàn” tuyệt đối. Soi chiếu vào các sáng tác của nho sĩ Việt
ta thấy, hầu hết vẫn nằm trong vòng cương tỏa của chữ “nhàn” của Nho giáo: Khát
khao sống nhàn, vui thú điền viên nhưng trong lòng vẫn luôn day dứt một “niềm
ưu ái cũ”.
1.1.2.2. Một số biểu
hiện của tư tưởng “nhàn” trong văn học trung đại
Quan niệm “nhàn” có nhiều sắc thái, gắn với từng
thời đại cũng như hoàn cảnh riêng của mỗi tác giả. Nhưng tựu chung, “nhàn” là
phép ứng xử, lẽ sống của giới Nho sĩ khi gặp sự va chạm giữa lý tưởng và hiện
thực. Tư tưởng “nhàn” trong văn học được thể hiện qua hai hình tượng nổi bật:
hình tượng cái tôi trữ tình tác giả và hình tượng thiên nhiên.
Xuất phát từ quan niệm “thi dĩ ngôn chí”,
trong văn học trung đại, tác giả với những tư tưởng, tình cảm đã trở thành một
hình tượng trong sáng tác của chính họ. Trong văn chương của nhà nho ẩn dật, ta
thấy xuất hiện hình ảnh của một hiền nhân đặt trong mối quan hệ với thiên
nhiên. “Nhà nho ẩn dật khi miêu tả cái tôi, có chủ định rõ ràng khi gạt bỏ mối
quan hệ với đời sống xã hội và chỉ diễn tả mối quan hệ giữa cái tôi và môi
trường thiên nhiên” [42, 82]. Trong mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên thanh
sạch, ta thấy nổi lên hình ảnh của một bậc nho sĩ giữ tiết xem thường công danh
phú quý, say sưa với đạo lý thánh hiền, một hiền nhân trong tâm thế ung dung,
tự tại tận hưởng cái thi vị của cuộc sống ẩn dật, ca tụng thú thanh nhàn.
Hình tượng tác
giả trong sáng tác của nhà nho luôn gắn với hình ảnh thiên nhiên. Do đó, thiên
nhiên trở thành một hình tượng nghệ thuật quan trọng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc
chỉ ra rằng: “Theo quan niệm của Nho giáo, cái mẫu mực thuộc về quá khứ, còn
cái trong sạch chủ yếu trong thiên nhiên… Họ tìm thấy trong thiên nhiên những
phẩm chất cao quý của con người theo quan niệm Nho giáo” [42, 81]. Miêu tả
thiên nhiên không phải là độc quyền của nhà nho ẩn dật. Nhưng với nhà nho ẩn
dật, thiên nhiên trở thành môi trường sống lí tưởng. Thiên nhiên hiện lên với
vẻ thuần khiết, giản dị và là biểu tượng của đạo lý để nhà nho soi mình, nhận
xét, chiêm nghiệm về bản thân, về lẽ sống, về nhân sinh thế sự. Nhà nho ẩn dật
là một mẫu người văn hóa, họ luôn trăn trở giữa hai lẽ sống “xuất” - “xử”. Hơn
ai hết, họ là “một nhân vật cô đơn, cô độc”. Do vậy, thiên nhiên với nhà nho không
còn đơn thuần là ngoại giới, là khách quan. Nhà nho đối diện với thiên nhiên để
dốc bầu tâm sự, hòa mình với thiên nhiên để quên đi những day dứt, đau đớn vì
cuộc đời. Hình tượng thiên nhiên khi đó trở thành bầu bạn, tri kỷ của nho sĩ.
Tư tưởng “nhàn”
trong văn học trung đại được thể hiện rõ nét qua hình tượng tác giả và hình
tượng thiên nhiên. Vì vậy, xem xét cụ thể từng hình tượng nghệ thuật và mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại giữa hai hình tượng này sẽ giúp nhà nghiên
cứu thấy được bản chất tư tưởng nhàn biểu hiện trong sáng tác của mỗi tác giả.
1.2 Đôi nét phác họa về thời
đại, con người, sự nghiệp của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.2.1 Thời đại, con người và
sự nghiệp của Nguyễn Trãi
1.2.1.1 Bức tranh
xã hội “thời đại Nguyễn Trãi”
“Thời đại Nguyễn Trãi” là cách gọi của Bùi Văn
Nguyên để chỉ “thời đại theo nghĩa hẹp, lấy thời gian cuộc đời Nguyễn Trãi
(1380 – 1442) làm mốc so sánh với thời gian tương ứng trong lịch sử việt Nam
ta” [28, 47].
Nguyễn Trãi sinh ra dưới thời Trần Phế Đế (1377 –
1387) – giai đoạn nhà Trần bước vào thời kì khủng hoảng. Sau hào quang rực rỡ
của những năm thịnh trị, từ cuối thế kỉ XIV, nhà Trần bước vào thời kì suy vi.
Thiết chế quân chủ quý tộc và kinh tế điền trang đã ngày càng bộc lộ những hạn
chế khiến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng trầm trọng. “Vào
những năm 1348, 1355, 1378, 1393… vỡ đê, hạn hán, mất mùa đói kém xảy ra liên miên.
Nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán” [46, 102]. Quý tộc tăng cường vơ vét, bóc
lột. Nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Các cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài ở nửa
cuối thế kỉ XIV. Xã hội hỗn loạn, vua không còn nắm thực quyền, mọi quyền bính
nằm trong tay Hồ Quý Ly. Trong nội bộ triều đình nhà Trần diễn ra những cuộc
thanh trừng, tranh giành quyền bính. Nhiều bậc nho sĩ tài năng bị hãm hại. Trong
số đó, Trần Nguyên Đán – ông ngoại Nguyễn Trãi bị ép về nghỉ ở Côn Sơn, cụ nội,
ông nội và các ông bác của Nguyễn Trãi thì bị hãm hại vì chống lại Hồ Quý Ly. Đất
nước đứng trước nguy cơ bị xâm lược.
Trước thực trạng suy vong của nhà Trần, tháng 2 năm
1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần lập ra nhà Hồ và mạnh dạn thi hành một số
cải cách nhằm cứu vãn xã hội đang trên đà lao dốc. Những cải cách của Hồ Quý Ly,
tuy có những mặt tích cực, tiến bộ nhưng thiếu triệt để, chưa giải quyết được
cuộc khủng hoảng xã hội. Cuộc cải cách nửa vời, tính chất “ngụy triều” đã khiến
nhà Hồ không thu phục được nhân tâm và nhanh chóng để đất nước rơi vào tay giặc
Minh xâm lược.
Năm 1406, giặc Minh xâm lấn bờ cõi. 1407,
chúng chiếm nước ta. Từ đây, nhân dân và cả nền văn hóa dân tộc bị bóc lột, phá
hủy bởi chính sách cai trị phản động, dã man, vô nhân đạo của lũ giặc phương Bắc
ấy. Tội ác này được Nguyễn Trãi tố cáo trong Bình Ngô đại cáo:
“Nướng dân đen trên
ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống hầm
sâu tai vạ.
…
Độc ác thay, trúc
Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước
Đông Hải không rửa hết mùi”
Trước bối cảnh đất
nước lầm than, tội ác của giặc Minh ngày càng chồng chất, nhiều cuộc khởi nghĩa
liên tiếp nổ ra ở khắp các địa phương: Khởi nghĩa Trần Ngỗi (1407 – 1409), Trần
Quý Khoáng (1409 – 1414)... Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1416 – 1428) dưới sự lãnh
đạo của Lê Lợi và những vị tướng tài đã đánh tan giặc Minh, giành lại bình yên
cho dân tộc.
Sau cuộc khởi nghĩa chống Minh thắng lợi,
nhà Lê sơ bước vào thời kỳ xây dựng chính quyền. Trong nội bộ triều đình non
trẻ xuất hiện nhiều mâu thuẫn, phức tạp. Nếu như trong những năm gian khổ của
cuộc kháng chiến, vua tôi: “Tướng sĩ một lòng
phụ tử; Hòa nước sông chén rượu ngọt
ngào” thì giờ đây đã có những chia rẽ, nghi kị, bè phái. Thậm chí, một vị
anh hùng lỗi lạc như Lê Lợi cũng đã trượt vào lối mòn của vua chúa phong kiến,
lo lắng cho quyền lực của dòng họ, nghe lời sàm tấu để đi đến những hành động
vô nhân, bội nghĩa mà người đời sau còn lên án. Đó là việc giết hại hai công
thần đại tướng tài giỏi là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo chỉ vì lý do một
người là dòng dõi nhà Trần, một người xuất thân kinh lộ. Thậm chí, Nguyễn Trãi
cũng đã có lúc bị nghi ngờ, bị bắt giam, có tài nhưng không được tin dùng. Để
giải thích những thảm kịch của một loạt những nhân vật lịch sử đó, Trần Ngọc
Vương truy tìm nguyên nhân từ sự xung đột giữa hai định hướng văn hóa. Như
chúng ta biết, dòng dõi Lê Lợi xuất thân ở một vùng núi Thanh Hóa. Khi thành
lập chính quyền, tất yếu những họ hàng, tông thích của vua sẽ nắm những vị trí
chủ chốt trong triều đình. Thế nhưng những đại thần quyền cao chức trọng ấy vốn
là các võ tướng người Mường, người Việt nhưng sinh ra ở vùng chưa có truyền
thống văn vật lâu đời, đa số chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay tập quán, tín
ngưỡng địa phương và nhiều người trong số họ không biết chữ. Điều này dẫn đến xung
đột giữa định hướng Nho giáo hóa xã hội của những nhân vật có học vấn, tiến bộ với
tư tưởng thủ cựu của những đại thần quyền cao chức trọng. Xung đột đó tất yếu
sẽ dẫn đến bi kịch như đã nêu.
Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định, dù
trong nội bộ chính quyền non trẻ của nhà Lê tồn tại những mâu thuẫn phức tạp
nhưng nhìn nhận một cách khách quan, bức tranh toàn cảnh xã hội thời kì này
đang phát triển theo hướng tích cực. Bằng chứng là đến thế kỉ XV, dưới sự cai
trị của vị vua anh minh Lê Thánh Tông (1460 – 1497), nhà nước phong kiến Việt
Nam phát triển đến cực thịnh. Nền kinh tế nhanh chóng được phục hồi và phát
triển, đời sống nhân dân được ổn định. Văn hóa, giáo dục được chú trọng. Theo
nhận xét của Nicholas Tarling, The Cambridge of Southest Asia, “Đây là thời kì
phát triển chưa từng thấy của nền học thuật, văn hóa” [45, 176].
Tóm lại, có thể nói, cuối thế kỷ XIV, nửa
đầu thế kỷ XV là thời kỳ khá phức tạp trong lịch sử dân tộc. Nhân dân gánh chịu
biết bao khổ cực bởi suy thoái cuối triều Trần, đất nước gồng mình đau đớn bởi
lưỡi gươm xâm lược tàn ác của giặc Minh. Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng đem lại
hòa bình cho nhân dân nhưng trong những buổi đầu xây dựng chính quyền, khôi
phục đất nước cũng gặp phải không ít những sai lầm để lại cho lịch sử những nỗi
đau mà cho đến bây giờ vẫn chưa thôi day dứt, tiếc nuối.
1.2.1.2 Vài nét
về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai là một người con vĩ
đại của dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới. Ông là nhà tư tưởng, nhà
chính trị, quân sự tài ba, đồng thời là một tên tuổi bậc nhất của nền văn học Việt
Nam. Nhưng cuộc đời ông lại là một cuộc đời bi kịch nhất trong lịch sử dân tộc
và đã để lại nỗi day dứt, tiếc nuối khôn nguôi trong lòng bao thế hệ.
Nguyễn Trãi xuất thân trong một dòng tộc thượng võ, nhiều
đời làm võ quan cao cấp dưới nhiều triều đại. Nguyễn Công Lý khẳng định: “Dòng
họ này có truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết, lập trường thân dân,
từng đứng về phía những người thế cô bị hà hiếp để đấu tranh dũng cảm chống lại
cường quyền và bạo lực, vì thế nhiều lần bị tai họa nặng nề dưới nhiều triều
đại phong kiến”[25]. Ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán - người có học vấn
uyên thâm, nổi tiếng thơ văn, giỏi lịch pháp, thiên văn, độn số, cha là Nguyễn
Phi Khanh cũng là một nhân vật có học vấn cao và tư tưởng thân dân. Chính phẩm
tiết của dòng họ, tài năng của cha ông kết hợp với yếu tố thiên tài tiềm ẩn đã
hun đúc nên một Nguyễn Trãi cương trực, ngay thẳng, tài năng xuất chúng.
Từ
nhỏ được sự giáo dục của ông ngoại và cha, tài năng của Nguyễn Trãi sớm phát
lộ. Nhận thấy nhà Trần đã hết vai trò lịch sử, với mong ước xây dựng một xã hội
tốt đẹp hơn, Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh và giữ chức Ngự sử đài chánh trưởng dưới triều nhà
Hồ. Nhưng mơ ước của ông chưa kịp thực hiện thì đất nước đã rơi vào tay quân Minh
xâm lược (1407). Vua tôi nhà Hồ, trong đó có thân phụ của Nguyễn Trãi bị bắt
đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi quyết định đi theo để phụng dưỡng, báo hiếu cha.
Nhưng sau đó, nghe lời cha, ông đã ở lại thực hiện “đại hiếu”, tìm cách cứu đất
nước thoát khỏi cơn dâu bể.
Những
năm 1408 – 1416, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng ở thành Đông Quan (Thăng Long).
Trong khoảng thời gian đó, ông đã nghiên cứu kế sách diệt Minh – Bình Ngô sách.
Năm
1416, Nguyễn Trãi đã trốn khỏi Đông Quan vào Lỗi Giang gặp và dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi. Ông trở thành
quân sư của Lê Lợi, được phong chức Tuyên
phong đại phu, Hàn lâm thừa chỉ.
Trong suốt cuộc kháng chiến gian khổ (1418 – 1428), Nguyễn Trãi đã sát cánh bên
Lê Lợi, cùng Lê Lợi trải qua biết bao khó khăn. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi là
vô cùng quan trọng. Như sử sách đã ghi lại, với chính sách “mưu phạt tâm công”,
Nguyễn Trãi là nhân tố quan trọng đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn.
Sau
khi đất nước hòa bình, Nguyễn Trãi những tưởng sẽ có điều kiện thực hiện tâm
nguyện với dân, với nước, nhưng ai ngờ thế sự đa đoan, lòng người đen bạc. Từ
đây, ông bắt đầu sống trong hàng loạt bi kịch. Nguyễn Trãi có công lớn trong công
cuộc gây dựng cơ đồ nhưng lại bị nghi kị. Đó là cái giá đắt của những thần tử
mà tài năng che khuất được bậc đế vương. Không bị bức tử như Trần Nguyên Hãn,
Phạm Văn Xảo nhưng Nguyễn Trãi cũng bị bỏ tù, sau dù được tha, nhưng cũng không
được tin dùng. Đau đớn vì bị bội bạc, vì khát khao cống hiến nhưng bất lực, Nguyễn
Trãi rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Điều đó làm nảy sinh tư tưởng “nhàn
dật” ở Nguyễn Trãi. Từ bỏ triều quan, ông ôm một nỗi ngậm ngùi về với Côn Sơn (1439
– 1440). Tại đây, ông sống trong những niềm vui giản dị với thiên nhiên, với
cuộc sống điền viên đạm bạc, xa lánh những đua chen, những tranh giành phức tạp
chốn quan trường. Tuy vậy, trái tim ông vẫn luôn rực cháy khát vọng cống hiến
cho dân, cho nước.
Năm
1440, Nguyễn Trãi được Lê Thái Tông mời trở lại triều đình. Dù đã rắp tâm quên
sự đời nhưng khi được tin dùng ông vẫn hăm hở như thủa nào. Điều này đủ để thấy
tình cảm ông dành cho dân, cho nước và triều đình nhà Lê quá sâu nặng. Những
tưởng sau bao thăng trầm, tài năng Nguyễn Trãi lại được tỏa sáng vì dân, vì
nước nhưng cái án oan Lệ Chi Viên (1442) đã hủy hoại tất cả. Thảm án tru di tam
tộc mà Nguyễn Trãi phải gánh chịu, cho đến nay còn làm nhói buốt trái tim của
biết bao người. Hai mươi năm sau cái ngày đau đớn ấy – năm 1464, nỗi oan thống
thiết của gia tộc Nguyễn Trãi được vị minh quân Lê Thánh Tông chiêu tuyết “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” nhưng
nỗi đau, niềm tiếc nuối xót xa sẽ còn kéo dài trong suốt chiều dài lịch sử dân
tộc ta.
Nguyễn
Trãi là bậc anh hùng dân tộc, đồng thời cũng là một tên tuổi quan trọng bậc nhất
trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Ông đã để lại một sự nghiệp văn
học đồ sộ. Dù đã bị mất mát nhiều sau thảm án tru di, ngày nay chúng ta biết
đến những tác phẩm nổi tiếng gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Về văn chính luận: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí,
Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục. Cùng với những áng
văn chính luận, Nguyễn Trãi đã để lại hai tập thơ giá trị tựa những viên ngọc
quý trong nền thi ca cổ điển dân tộc. Đó là Ức Trai thi tập – tập thơ viết bằng chữ Hán gồm 105 bài thơ ngũ ngôn, thất ngôn và Quốc âm thi tập – tập thơ gồm 254 bài
thơ viết bằng chữ Nôm. Với những sáng tác của mình, Nguyễn Trãi đã có những
đóng góp quan trọng cho sự phát triển văn học dân tộc trên nhiều lĩnh vực: ngôn
ngữ, thể thơ, nội dung tư tưởng... Từ đó, đặt nền móng cho sự phát triển văn
học theo hướng dân tộc hóa.
1.1.1.3 Vài nét về Quốc âm thi tập
Quốc âm thi tập được các nhà nghiên cứu khẳng định là tập thơ Nôm cổ
nhất hiện còn. Trước Quốc âm thi tập
đã có những sáng tác Nôm của các tác giả thời Lý – Trần (Giáo trò – Từ Đạo Hạnh, Cư
trần lạc đạo, Đắc thú lâm tuyền thành
đạo ca – Trần Nhân Tông, Vịnh Vân Yên
tự – Huyền Quang…) nhưng ở mức độ lẻ tẻ, ít ỏi. Vì vậy, sự xuất hiện của Quốc âm thi tập đã tạo nên bước ngoặt
lớn cho thơ ca dân tộc, bởi đây là tập thơ Nôm đoản thiên đầu tiên và cũng là
tập thơ Nôm có số lượng nhiều bậc nhất trong nền văn học nước nhà.
Quốc âm thi tập tập hợp 254 bài thơ, được Nguyễn
Trãi sáng tác chủ yếu vào giai đoạn cuối cuộc đời – giai đoạn thấm đẫm bi kịch
tinh thần cô đơn, đau đớn. Tập thơ là nơi chứa đựng những tâm sự sâu kín, những
day dứt về nhân sinh thế sự, đạo lý luân thường, những trăn trở về lẽ “xuất –
xử”, “hành – tàng”, khát khao sống với thiên nhiên… của vĩ nhân Nguyễn Trãi.
Không chỉ đóng
góp về số lượng, những sáng tác thơ Nôm của Nguyễn Trãi đã có cống hiến quan
trọng về phương diện thi pháp nghệ thuật. Dựa trên thể thơ thất ngôn tiếp thu
từ thơ Trung Hoa, Nguyễn Trãi đã sáng tạo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Hơn
nữa “Ông còn mạnh dạn đưa vào thơ cách luật (vốn là thể thơ mang tính bác học
và cao quý) những từ ngữ đời thường, những hình ảnh dung dị của cuộc sống. Vì
thế ở góc độ thi pháp, có thể thấy Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên cắm cái mốc
phá vỡ tính quy phạm, khuôn thước của thơ cách luật để thổi vào đó cái hồn dân
tộc” [25].
Như vậy, với những đóng góp quan trọng trên hiều phương diện, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi xứng
đáng được tôn vinh là tập thơ đặt nền cho quá trình dân tộc hóa văn học trung
đại Việt Nam, mở đầu cho nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
1.2.2 Thời đại, con người và
sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.2.2.1 Bối cảnh
lịch sử - xã hội Việt Nam thế kỷ XVI
Thế kỉ XVI được giới sử học nhìn nhận là thời kỳ bi
thương, loạn lạc trong lịch sử dân tộc, thế kỷ của chiến tranh, cát cứ, gây nên
cảnh núi xương, sông máu và biết bao nỗi thống khổ cho nhân dân.
Ngay sau thời
đại thái bình thịnh trị của vị quân vương tài ba Lê Thánh Tông (1460 – 1497),
đặc biệt từ khi Lê Hiến Tông mất (1504), chính trị xã hội nhà Lê lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng. Chỉ trong vòng hơn 20 năm ngắn ngủi (1504 - 1527), sáu đời
vua Lê nối tiếp nhau lên ngôi, rồi lại bị phế truất, bị giết. Sự hoang dâm, tàn
ác, chơi bời vô độ của các vua Lê thời mạt triều này đã khiến chính sự càng
thêm đổ nát. Đặc biệt, sự xuất hiện những vua quỷ (Lê Uy Mục), vua lợn (Lê
Tương Dực) càng khiến cỗ xe chính trị Lê triều trượt nhanh xuống vực thẳm. Ở
triều đình, vua chúa tựa quỷ sứ. Ở địa phương, quan lại tựa kẻ cướp ra sức
hoành hành nhũng nhiễu nhân dân. Đời sống nhân dân vô cùng lầm than. Sử cũ chép
lại “Năm 1517, trong nước đói to, xác người chết đói nằm gối lên nhau” [27, 11].
Tình trạng trên đã dẫn đến lòng dân oán hận, các cuộc khởi nghĩa nông dân liên
tiếp nổ ra trên khắp đất nước.
Năm
1527, nhận thấy sự bất lực của triều Lê, Mạc Đăng Dung đã bức vua Lê Cung Hoàng
phải nhường ngôi và lập ra nhà Mạc. Tồn tại trong vòng 65 năm, ở giai đoạn đầu
dưới thời Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, nhà Mạc đã có những đóng góp tích cực
trong việc ổn định đời sống xã hội. Đặc biệt, thời Mạc Đăng Doanh (1530 – 1540)
đã được ca ngợi là thời trị bình: “được mùa, nhà no người đủ, trong nước gọi
thời ấy là trị bình” [27, 16]. Xã hội đạt đến mức thái bình “Người đi buôn bán
chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm
cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi, tối không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng
một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liền được mùa, nhân dân bốn chấn đều yên ổn” [27,
16]. Tuy nhiên, tình hình xã hội ổn định chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn,
đến thời Mạc Phúc Hải (1541 – 1546), đất nước lại tiếp tục rơi vào cảnh chiến
tranh loạn lạc, nhân dân đói khổ, lầm than. Đặc biệt, “Sức mạnh của đồng tiền
đã tấn công và làm rạn nứt thảm hại thành trì lễ giáo Tống Nho. Triết lí danh
phận nhường chỗ cho quan niệm Còn tiền
còn bạc còn đệ tử; Hết cơm hết gạo
hết ông tôi” [27; 59]. Xã hội ngày càng loạn, đạo đức, lối sống xuống dốc
trầm trọng.
Vua
chúa bất tài, vô dụng, quan lại tự xưng hùng, xưng bá đánh giết lẫn nhau gây
cục diện “nồi da xáo thịt”, “huynh đệ tương tàn” hết sức thê thảm. Trong vòng
hơn một thế kỉ (1533 - 1672), đất nước nằm trong mớ bùi nhùi của các cuộc chiến
tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc hay còn gọi chiến tranh
Nam - Bắc triều (1533 - 1592). Tiếp đó cuộc chiến tranh Lê, Trịnh - Nguyễn
(1627 - 1672) dẫn đến cục diện đất nước bị chia cắt. Nhân dân cơ cực, lầm than.
Thế
kỉ XVI đã góp vào bức tranh toàn cảnh lịch sử dân tộc
một mảng màu đen tối, bi thương với chiến tranh, loạn lạc, nhân dân bị chìm đắm
trong đói khổ lầm than, đạo đức, lối sống ngày càng suy đồi, xã hội thối nát…
Thực trạng này được phản ánh phần nào trong các sáng tác văn học đương thời.
1.2.2.2 Vài nét về cuộc
đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), húy Văn
Đạt, tên chữ Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ là nhà văn hóa tiêu biểu của Việt
Nam thế kỉ XVI.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra trong một gia đình
có truyền thống Nho học. Thân phụ là Nguyễn Văn Định từng đỗ Hương cống, thân
mẫu là Nhữ Thị Thục - con gái thượng thư Nhữ Văn Lan, theo sử sách truyền lại
là người phụ nữ giỏi văn chương, lý số. Chắc hẳn từ nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
sớm tiếp thu được phần nào truyền thống văn hóa, văn học của gia đình. Lớn lên,
ông lại theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng – một người nổi tiếng tài năng đương
thời và tương truyền ông được thầy truyền cho bộ Thái ất thần kinh. Tư chất thông minh, kết hợp với môi trường giáo
dục cơ bản đã hình thành nên một tài năng, nhân cách lớn của dân tộc.
Tài
năng, uyên bác, nhưng trước thực trạng xã hội đảo điên và sự yếu kém của nhà
Lê, Nguyễn Bỉnh Khiêm đành ở ẩn. Đến thời Mạc Đăng Doanh, nhận thấy so với
triều Lê mục nát thì nhà Mạc đã có những xu hướng tiến bộ, bằng chứng là xã hội
đã bước vào ổn định, dân đã bớt đói khổ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thực hiện khát
vọng “trí quân trạch dân” mà ông vẫn ôm ấp bấy lâu. Năm 1534, Ông ra ứng thi,
năm 1535, ông đỗ Trạng Nguyên và ra làm quan. Con đường làm quan của Nguyễn
Bỉnh Khiêm khá hanh thông, ông được gia phong đến cương vị Tả thị lang bộ hộ, Đông các
đại học sĩ, Trình tuyền hầu. Tuy
nhiên, những năm ở quan trường của ông hết sức ngắn ngủi (chỉ kéo dài tám năm).
Ẩn suốt nửa đời người để tìm minh chúa, Nguyễn Bỉnh Khiêm những tưởng nhà Mạc
sẽ đem đến cho xã hội những sắc diện mới. Thế nhưng, ánh sáng vừa lóe lên đã
vội vụt tắt, màn đêm đen lại bao phủ cuộc sống nhân quần. Đến đời Mạc Phúc Hải,
chính sự rối ren, quan lại kết bè đảng, tranh giành quyền lực. Cương trực, ngay
thẳng, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ chém mười tám lộng thần (trong đó có cả thông
gia và con rể ông) nhưng vua không chấp nhận. Năm 1543, Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ
hoạn lộ về dựng Am Bạch Vân, quán Trung Tân để truyền bá tư tưởng, dạy học, đào
tạo trí thức cho dân tộc.
Cuộc
đời Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy có những lúc bất đắc chí nhưng nhìn chung ít sóng
gió. Ông không phải chịu nỗi đau của một nhân cách, tài năng lớn bị chèn ép,
nghi kị như trường hợp Nguyễn Trãi. Dù không ở triều đình, không tham gia chính
sự nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn được các bậc vua chúa, các thế lực phong kiến
xem như bậc quân sư, bậc hiền triết. Điều này góp phần tạo nên phong thái ung
dung, tự tại giữa một thế kỉ loạn lạc của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Sống gần trọn thế kỷ
XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại một sự nghiệp văn học giá trị, xứng đáng là
“cây đại thụ” của nền văn học trung đại dân tộc. Sáng tác của ông bao gồm cả
chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán gồm: Bi kí
quán Trung Tân, Thạch khánh ký. Trong
đó nổi bật nhất là tập thơ Bạch Vân am
thi tập tương truyền có hơn nghìn bài thơ, nhưng cho đến nay chỉ còn khoảng
sáu, bảy trăm bài. Về chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi tập khoảng 161 bài
(theo Đinh Gia Khánh), được xem là tập thơ quốc âm lớn sau Quốc âm thi tập và Hồng Đức
quốc âm thi tập. Nội dung thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến chất triết lý
và tính giáo huấn. Một mặt, ông tố cáo hiện thực xã hội đương thời với chiến
tranh phi nghĩa, sự áp bức của quan lại,
những rạn nứt trong đời sống nhân sinh, sự băng hoại của đạo đức phong kiến.
Mặt khác, ông định hướng con đường thoát khỏi hiện thực ấy, hướng tới ca ngợi
cuộc sống “nhàn dật” để đối lập với bầu không khí đen tối của xã hội. Ẩn sâu
trong thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là khát vọng về một cuộc sống “Thái bình thiên tử, thái bình dân”. Như
vậy, “Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phản ánh nỗi băn khoăn, niềm khát vọng của
cả một tầng lớp nho sĩ đương thời muốn lý giải những biến đổi của thời cuộc và
tìm kiếm phương hướng, vận động cho sự phát triển của xã hội và cá nhân” [13, 20].
1.2.2.3 Bạch Vân quốc
ngữ thi tập
Bạch Vân quốc ngữ thi tập được Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác trong thời
kỳ ông đã quy ẩn bên dòng Tuyết Giang.
Phần
lớn các bài thơ được sáng tác dưới hình thức thơ Đường luật, có xen những bài
viết theo thể thất ngôn xen lục ngôn. Tất cả các bài thơ đều không có đầu đề.
Nhìn chung, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn nằm trong khuôn khổ thi pháp thơ trung
đại, thể hiện ở việc sử dụng hệ thống điển cố, hình ảnh có tính ước lệ trong
văn chương bác học. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy, thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã tiếp nối được truyền thống trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Đó là việc đưa
ngôn ngữ thơ về gần với lối diễn đạt trong đời sống thường ngày. Cùng với những
câu thơ mang đậm ngôn ngữ bác học, ta cũng bắt gặp những câu thơ với lời lẽ
dung dị, hình ảnh đậm chất đời thường, gần với âm hưởng tục ngữ: “Thớt
có tanh tao ruồi đỗ đến; Gang không mật mỡ kiến bò chi” hay “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử; Hết cơm, hết
rượu, hết ông tôi”. Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh khẳng định Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã có công “đưa thơ Nôm về với đời sống dân dã” [39, 561].
Về phương diện nội dung, Bạch Vân quốc ngữ thi tập vẫn thuộc dòng thơ “tỏ chí”. Nguyễn Bỉnh
Khiêm quan niệm: “Thơ lại là để nói chí. Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở
công danh, có kẻ chí để ở sự nhàn dật”. Tính chất “ngôn chí” trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập thể hiện ở một
số đề tài: Cuộc sống nhàn dật; tâm sự trước sự suy tàn của xã hội, đạo đức
phong kiến; khuyên răn, giáo huấn; suy ngẫm về bổn phận với vua, với nước…
Với những đóng góp trên nhiều phương diện, Bạch Vân quốc ngữ thi tập là một sáng
tác tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam thế kỷ XVI. Tác phẩm đã tiếp nối
hành trình phát triển thơ ca bằng tiếng nói của dân tộc, đưa thơ ca về gần hơn
với cuộc sống. Điều quan trọng hơn, tập thơ đã vẽ nên diện mạo tinh thần của
một thế hệ các nhà nho – tầng lớp trí thức Việt trong thời loạn.
1.3. Vấn đề tồn nghi về văn bản Quốc
âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi
tập
Khi thực hiện đề tài, chúng tôi
gặp khó khăn về vấn đề văn bản của hai tập thơ Quốc âm thi tập và Bạch Vân
quốc ngữ thi tập. Đó là hiện tượng trùng lặp một số bài thơ giữa hai tập
thơ. Kế thừa kết quả khảo sát của các nhà nghiên cứu đi trước, đối chiếu vào
hai văn bản Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập
(Phạm Luận phiên âm và chú giải, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012) và Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (Đinh Gia
Khánh chủ biên, nxb Văn Học, 1983), chúng tôi xác định được 29 bài thơ trùng
lặp giữa hai văn bản (phụ lục 1). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
nhưng vì không thuộc đối tượng nghiên cứu, chúng tôi tạm thời không nhắc đến.
Để phân định những bài thơ trùng lặp trên là một việc hết sức khó khăn, phức
tạp, đòi hỏi sự hợp tác của khoa học liên nghành. Hiện nay, nhiều nhà nghiên
cứu cố gắng xác định những bài thơ trên, bài nào của Nguyễn Trãi, bài nào của
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Tài Cẩn đã sử dụng phương pháp so sánh ngôn ngữ để “Thử
phân định thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Lã Nhâm Thìn sử dụng
phương pháp thi pháp học, dựa vào số câu thơ sáu chữ, nhịp thơ, nội dung biểu
đạt của những câu thơ sáu chữ để phân định… Tuy nhiên để đảm bảo tính khách
quan cho việc thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ tạm để các bài thơ trùng lặp đó
ngoài phạm vi nghiên cứu.
·
Tiểu kết
Tư tưởng
“nhàn” là một phương diện nổi bật trong sáng tác của các nhà Nho. Đó là biểu
hiện của một phương thức ứng xử trước hiện thực xã hội. Tư tưởng này có nguồn
gốc sâu xa từ bản chất của các hệ tư tưởng Nho – Đạo – Phật, kết hợp với những
đặc điểm xã hội, thời đại, cuộc đời của mỗi tác giả đã tạo những biểu hiện khác
nhau. Do đó tư tưởng “nhàn” của các tác giả ở các giai đoạn khác nhau sẽ có sự
kế thừa, vận động nhất định.
Cuối thế
kỉ XIV, đầu thế kỉ XV là một thời kì khá phức tạp trong lịch sử Việt Nam. Đất
nước trải qua những cuộc biến thiên lớn giữa hai đối cực chiến tranh - hòa
bình, suy thoái - phát triển. Sống trong thời đại ấy, Nguyễn Trãi đã đã gặp
phải biết bao biến cố, thăng trầm, biết bao những bi kịch đau đớn, tuyệt vọng.
Điều đó là nguyên nhân dẫn dắt ông đã tìm về với tư tưởng “nhàn dật” như một giải
pháp “minh triết bảo thân”, một quan niệm sống để an ủi trái tim cô đơn.
Bước sang
thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Chiến tranh, cát cứ khiến đời sống nhân dân cực khổ, lầm than. Tiền bạc, danh
lợi làm cho đạo đức phong kiến suy đồi. Thực trạng bi thương ấy cũng đã khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm đến tư tưởng
“nhàn dật” như một triết lý sống trong thời đại loạn lạc.
Bảng 2.2 Điều kiện sinh hoạt của người ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập
Bảng 2.3: Bầu bạn của người ẩn sĩ
2.1.3 Người ẩn sĩ ối lập, xa lánh những đua chen chốn quan trường
Chương 2
“NHÀN” TRONG QUỐC ÂM THI TẬP – QUAN NIỆM SỐNG
CỦA CÁI TÔI CÔ ĐƠN
2.1 Thơ “Nhàn” Nguyễn Trãi – sự tiếp nối
mạch nguồn thơ “nhàn” trung đại
2.1.1 Người ẩn sĩ và cuộc sống
điền viên, đạm bạc
Đời sống nông nghiệp lệ thuộc vào thiên nhiên, cộng
với quan niệm “thiên nhân hợp nhất” trong tư duy triết học phương Đông và tính
cách văn hóa duy cảm, duy mỹ của dân tộc đã gieo vào tâm thức con người trung
đại ý thức coi trọng thiên nhiên. Do vậy, thiên nhiên trở thành một hình tượng
nghệ thuật quan trọng trong sáng tác văn chương trung đại.
“Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,
Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong”.
(Khán thiên
gia thi – Hồ Chí Minh)
Thiên nhiên trong thơ ca trung đại được cảm nhận như
một chủ thể có tâm sự, có phẩm chất, đẳng cấp, là tấm gương phản ánh tâm tư
tình cảm của nhân vật trữ tình. Trong sáng tác của các nhà nho ẩn dật, không
gian thiên nhiên trở thành môi trường sống lí tưởng, trở thành niềm ước vọng
lớn lao.
Trong Quốc âm
thi tập, Nguyễn Trãi đã tái hiện một không gian sống lí tưởng giữa thiên
nhiên đượm màu sắc nguyên sơ, thanh khiết, tĩnh lặng. Trong không gian ấy, nổi
bật hình ảnh một ẩn sĩ sống gắn bó mật thiết với thiên nhiên, tận hưởng thú vui
của cuộc sống “nhàn dật”. Khảo sát 225 bài thơ trong Quốc âm thi tập (29 bài trùng Bạch
Vân quốc ngữ thi tập), chúng tôi nhận thấy những hình ảnh “Căn lều”, “am”, “hiên”, “đình”, “viện”, “thư trai”, hình
ảnh “lâm tuyền”, “thôn dã”, “ruộng vườn”, “đìa, ao”...
xuất hiện với mật độ dày đặc (90/ 225 bài), cụ thể như sau:
Bảng 2.1 Không gian sống của
người ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập
stt
|
Không gian sống
|
Số lần
|
Tên bài
|
1
|
Căn lều
|
11
|
1;
15; 18; 52; 81; 84; 105; 119; 124; 157; 164.
|
2
|
Am, hiên, đình, viện, thư trai
|
23
|
4;
5; 7; 12; 17; 18; 19; 21; 23; 28; 31; 32; 59; 60; 64; 82; 97; 107; 110; 123;
125; 160; 170.
|
3
|
Lâm tuyền, non nước, thôn
dã, quê cũ
|
31
|
5;
15; 17; 26; 29; 41; 46; 48; 50; 54; 64; 71; 72; 77; 78; 86; 88; 94; 95; 98;
109; 115; 117; 122; 133; 143; 155; 156; 158; 169; 189.
|
4
|
Đìa, ao
|
12
|
1;
4; 11; 23; 28; 35; 68; 78; 82; 84; 165; 170.
|
5
|
Ruộng, Vườn
|
11
|
33;
35; 43; 89; 110; 140; 143; 150; 154; 159; 177
|
Không gian sống
của người ẩn sĩ dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi hiện lên đơn sơ, giản dị nhưng
cũng rất thanh khiết và thơ mộng với những “Căn
lều mọn mọn cách hồng trần”, am vắng
quạnh hiu, những song mai, hiên trúc, vườn tược, đìa, ao, những chốn lâm tuyền, những cõi yên hà...
“Con lều mọn mọn
đẹp làm sao,
Trần thế chăng
cho bén mỗ hào.
Khách lạ đến ngàn
hoa chửa rúng,
Câu
mầu ngâm dạ nguyệt càng cao”. (Bài
52)
“Rừng nhiều cây
rợp hoa chầy động,
Đường
ít người đi cỏ kíp xâm”. (Bài
5)
Không
gian ẩn dật ấy dường như được được bao bọc trong một bầu không khí “vô trùng”
thanh sạch, tinh khiết tuyệt đối: “Giũ
không thay thảy tấm hồng trần”. Sự tĩnh lặng tựa hư không, sự giản dị đến
thuần khiết của cảnh vật đã tạo nên sức quyến rũ mãnh liệt đối với người ẩn sĩ.
Ở nơi “Trần thế chăng cho bén mỗ hào”
ấy, người ẩn sĩ có những phút giây trầm lắng để đối diện với lòng mình, để tìm
kiếm sự thanh cao trong tâm hồn và các chuẩn mực của cuộc sống mà họ vẫn hằng
khát khao. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc nhận xét: “Theo quan niệm của Nho giáo,
cái mẫu mực thuộc về quá khứ, còn cái trong sạch chủ yếu trong thiên nhiên… Họ
tìm thấy trong thiên nhiên những phẩm chất cao quý của con người theo quan niệm
Nho giáo” [42, 81]. Người ẩn sĩ Nguyễn Trãi cũng vậy, bằng một tình yêu tha
thiết dành cho vạn vật, ông lắng hồn mình đón nhận từng hơi thở mỏng manh, khẽ
khàng của cỏ cây, hoa lá, quan sát từng biến động tinh vi của thiên nhiên để
tận hưởng thú vui của cuộc sống “nhàn dật”.
“Am rợp chim kêu
hoa sảy động,
Song âm hương tiễn khói sơ tàn”. (Bài 17)
“Am quạnh thiêu
hương đọc ngũ kinh,
Linh
đài sạch một đường thanh”. (Bài
31)
“Đìa thanh cá lội in vầng nguyệt,
Cây
tĩnh chim về rợp bóng xuân”. (Bài
165)
Không gian sống
của người ẩn sĩ giữa thiên nhiên được miêu tả trong một sự ngưng đọng, tĩnh
lặng, chỉ một tiếng chim kêu, một thoáng giật mình khẽ khàng cũng đủ làm bầu
không gian trở nên xao động. Không gian ấy đối lập hoàn toàn với cái ồn ào, gấp
gáp, tranh giành chốn quan triều. Đó chính là môi trường sống lí tưởng của
người ẩn sĩ để thực hiện vấn đề “độc thiện kì thân”. Không gian thiên nhiên lí
tưởng, thanh sạch của cuộc sống “nhàn dật, cũng đã được Nguyễn Trãi cực tả
trong Côn Sơn ca:
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Cô Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lý thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc”. (Côn Sơn ca)
(Côn Sơn có khe,
Tiếng nước chảy
rì rầm,
Ta lấy làm đàn
cầm.
Côn Sơn có đá,
Mưa xối rêu xanh
đậm,
Ta lấy làm chiếu
thảm.
Trong núi có
thông,
Muôn dặm rờn rờn
biếc một vùng,
Ta tha hồ ngơi
nghỉ ở trong.
Trong rừng có
trúc,
Nghìn mẫu in biếc
lục,
Ta
tha hồ ngâm nga bên gốc). (Bài
ca Côn Sơn)
Từ giã chốn quan
trường bụi bặm, Nguyễn Trãi không chỉ hòa mình vào vẻ đẹp đơn sơ, thanh khiết của
thiên nhiên, ông còn tìm về nơi ruộng vườn, thôn dã, sống cuộc đời hồn hậu của
một dật dân thực thụ “Một cày một cuốc
thú nhà quê”, “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh
điền nhi thực”.
“Một cày một cuốc
thú nhà quê,
Áng cúc lan xen
vãi đậu kê.
Khách đến chim
mừng hoa sảy rúng,
Chè
tiên nước nghín nguyệt theo về”. (Bài 48)
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau
trong nội cá trong ao.” (Bài
35)
Cuộc
sống ẩn dật chốn điền viên dưới ngòi bút duy mĩ và tâm hồn đa cảm của thi hào
Nguyễn Trãi hiện lên thật thơ mộng, êm đềm trong sự giao hòa, tương tác giữa
con người và thiên nhiên: “Khách đến chim
mừng hoa sảy rúng; Chè tiên nước nghín nguyệt theo về”. Cũng chính ở câu
thơ viết về cuộc sống điền viên này, những “ao muống”, “lảnh mùng”, “cây
chuối”, những bông núc nác dân dã của cuộc sống quê hương đã có cơ hội bước chân
vào thành trì của thơ ca thay thế cho những hình ảnh ước lệ tượng trưng.
“Ao quan thả gửi
hai bè muống,
Đất
bụt ương nhờ một lảnh mùng”. (Bài 68)
“Dã lòng thanh mùi núc nác,
Ương
đất ải lảnh mồng tơi” (Bài
10)
Trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi, sự xuất hiện những hình ảnh của đời sống thực đã làm cho bức tranh
cuộc sống ẩn dật của thi hào trở nên sinh động, chân thật, gần gũi hơn. Tuy
nhiên cũng cần phải khẳng định, dù Nguyễn Trãi đã có công đưa những hình ảnh
gần gũi, thân quen của dân tộc vào thi ca nhưng ông không phải là người đầu
tiên viết về cuộc sống điền viên. Trở về với cuộc sống dân dã, tận hưởng thú “nhàn”
đã là một sự lựa chọn trên con đường “lánh đục về trong” của các bậc tiền nhân
trước đó nhiều thế kỉ. Đào Tiềm - ông tổ của thi ca “nhàn dật”, khi gặp sự thế
trọc loạn đã Quy khứ lai từ, “Kết lư tại nhân cảnh” (kết lều cỏ giữa cõi
người) để giữ gìn phẩm tiết thanh cao. Cuộc sống điền viên thanh tĩnh, tươi đẹp
cũng là chủ đề chính trong sáng tác của các nhà thơ Sơn thủy điền viên. Mạnh
Hạo Nhiên (689 – 740) – nhà thơ lớn thời Thịnh Đường cũng đã có những bài thơ
ngợi ca cảnh thôn dã yên bình, thơ mộng.
“Lục thụ thôn biên hợp,
Thanh
sơn quách ngoại tà.
Khi
hiên diện tương phố,
Bả
tửu ngữ tang ma”. (Quá cố nhân trang)
(Ven xóm cây xanh tốt,
Ngoài đồng
bóng núi tà.
Vườn tược
ngồi hiên ngắm,
Dâu gai
chén rượu khà). (Qua trại của bạn cũ)
Trong các sáng tác thơ văn thời Lý – Trần, cuộc sống thôn dã thanh bình
cũng đã trở thành một chủ đề quen thuộc. Nhà vua tài hoa, vị Phật vương Trần
Nhân Tông (1258 – 1380) cũng đã tạc vẽ cuộc sống thôn quê hết sức sinh động
trong Thiên Trường vãn vọng:
“Thôn
hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu
tịch dương biên.
Mục đồng địch
lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song
song phi hạ điền”.
(Thiên Trường vãn vọng)
Bằng hoài niệm da diết, Nguyễn Trung
Ngạn (1289 – 1370) cũng đã tái hiện cuộc sống thanh bình giản dị của quê hương
với những hình ảnh thân thuộc: bông lúa chín, canh cua béo, dâu, tằm trong Quy hứng.
“Lão tang diệp
lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa
hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại
gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như quy”. (Quy
hứng)
Bậc sư biểu Chu Văn An (1292 – 1370) của làng Nho Việt cũng ca ngợi cuộc
sống ẩn dật khi cáo quan về ẩn.
“Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích khê tảo sắc thiên như túy,
Hồng thấp hoa
sao lộ vị can” (Xuân đán)
(Nhà trên núi
thanh vắng suốt ngày nhàn rỗi,
Cửa phên treo
nghiêng che đỡ hơi lạnh.
Cỏ xanh biêng
biếc trời như say,
Hoa đẫm màu hồng
hạt sương chưa khô)
Trong văn chương trung
đại, việc trở về với thiên nhiên nơi lâm tuyền, thôn dã để di dưỡng tính tình,
bảo toàn phẩm tiết không còn là việc của cá nhân mà đã trở thành một chuẩn tắc
ứng xử, cũng như nguyên tắc sáng tạo thơ ca của tầng lớp nho sĩ. Nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn cho rằng: “Nhà nho ẩn dật miêu tả thiên nhiên với nghĩa là môi
trường sống lí tưởng của mình mà lược bỏ các quan hệ dân sự. Rất có khả năng là
trên thực tế, cuộc sống của nhà nho ẩn dật chỉ diễn ra giữa môi trường thiên
nhiên thuần khiết” [42, 82]. Cũng như các bậc tiền nhân, sau những đắng cay nếm
trải ở chốn quan trường, Nguyễn Trãi đã khẳng khái, dứt khoát từ bỏ con đường
hoạn lộ trở về tìm kiếm niềm vui chốn “tùng lâm” thanh tĩnh.
“Giũ bao nhiêu bụi
bụi lầm,
Giơ tay áo đến tùng
lâm. (Bài 5)
Trong khoảng thời
gian ngắn ngủi từ năm 1439 đến năm 1440, Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn, sống cuộc đời
của một “nhàn nhân”, “dật sĩ”. Trở về cuộc sống giữa thiên nhiên, Nguyễn Trãi
đã có điều kiện tách mình ra khỏi vòng lốc xoáy của danh lợi phù hoa chốn quan
trường hiểm hóc để giữ tròn phẩm tiết của bậc trượng phu.
Trong
hành trình ẩn dật, sống giữa thiên nhiên đơn sơ, thuần khiết, Nguyễn Trãi chủ
động gạt bỏ mọi mối quan hệ dân sự và tự đặt mình vào một nền kinh tế tự cung
tự cấp – cày ruộng để ăn, đào giếng mà uống. Điều đó cũng có nghĩa, ông đã trải
qua cuộc sống vô cùng thiếu thốn về vật chất.
Bảng 2.2 Điều kiện sinh hoạt của người ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập
stt
|
Bài
|
Câu thơ
|
1
|
1
|
No nước uống thiếu cơm ăn.
|
2
|
4
|
Bữa ăn dầu có dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm là.
|
3
|
10
|
Dã lòng thanh mùi núc nác,
Vun đất ải lảnh mùng tơi.
|
4
|
15
|
Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc,
Căn lều cỏ đội đức Đường Ngu.
|
5
|
23
|
Ngày tháng kê khoai những sản hằng,
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.
|
6
|
33
|
Bít bả hài gai khăn gốc,
Xềnh xoàng làm mỗ đứa thôn nhân.
|
7
|
90
|
Áo đành một tấm cơm hai bữa,
Phận ấy chưng ta đã có thừa.
|
8
|
104
|
Muối lẫn dưa dầu đủ bữa,
Thêu cùng gấm mặc chưng đời.
|
9
|
110
|
Việc vàn ai hỏi áo bô cằn.
|
10
|
124
|
Mùa qua chằm bức áo sen.
|
11
|
126
|
Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,
Áo bô quen cật vận xênh xang.
|
12
|
134
|
Nằm có chiếu chăn cho ấm áp,
Ăn thì canh cá chớ khô khan.
|
13
|
140
|
Cơm ăn miễn có dầu xoa bạc,
Áo mặc âu chi quản cũ đen.
|
Cuộc sống sinh
hoạt ẩn dật được Nguyễn Trãi tái hiện vô cùng đơn sơ, đạm bạc, nếu không nói là
kham khổ với những bữa ăn “dưa muối”,
“cơm xoa”, “kê khoai”, có khi “No nước
uống thiếu cơm ăn”, với những “áo bô”,
“hài gai”, “khăn gốc”... Tuy nhiên, ông lại xem những hạn chế về vật chất ấy
như một phần của cuộc sống “nhàn”, một phương cách để “tu thân”. Bởi “Trong đời
sống hàng ngày, người quân tử không đề cao việc ăn - mặc - ở, ăn là để tồn tại chứ
không cần ăn ngon hay ăn no, mặc, cốt ở che thân chứ không cần nhà cao cửa rộng
không cần lụa là gấm vóc” [42, 387]. Từ phương cách ứng xử với đời sống vật
chất như vậy, nhà nho mong muốn đạt được mục tiêu “khử nhân dục” và khẳng định
phẩm tiết thanh cao. Nguyễn Trãi cũng vậy, mặc dù trải qua cuộc sống thiếu
thốn: “Áo đành một tấm cơm hai bữa”
nhưng ông hài lòng và thấy như vậy là “ta
đã có thừa”, đã no đủ. Dù chỉ với “hài
cỏ”, “áo bô”, ông vẫn giữ được tư
thế ung dung, “đủng đỉnh”, “xênh xang”. Bằng lòng với đời sống đạm
bạc tự cung tự cấp, Nguyễn Trãi cũng như các bậc hiền nho xưa xem đó như một
bức bình phong tách biệt mình với cuộc sống thế sự để tiêu diệt được những dục
vọng về tiền bạc, lợi danh.
Xuất phát từ quan điểm xem thường phú quý, gạt
bỏ mọi mối quan hệ với cuộc sống xã hội đầy rẫy những đua tranh, ghen ghét, đố
kị, người ẩn sĩ Nguyễn Trãi tìm về Côn Sơn bầu bạn với trúc, thông, trăng, hoa,
viên hạc... để gửi trao, kí thác biết bao nỗi niềm tâm sự cũng như tình yêu
cuộc sống.
Bảng 2.3: Bầu bạn của người ẩn sĩ
stt
|
Bầu bạn
|
Số lần
|
Tên
bài
|
1
|
Trúc, thông,
mai, cam, quýt
|
17
|
5; 7; 13; 33; 46; 50; 60; 75; 81; 82; 86; 90; 117;
119; 126; 143; 164.
|
2
|
Viên, hạc
|
7
|
21; 23; 60; 71; 109; 119; 126.
|
3
|
Non nước
|
6
|
60; 64; 81; 88; 143; 169.
|
4
|
Trăng, mây
|
5
|
64; 76; 90; 167; 169.
|
5
|
Đèn sách
|
6
|
7; 18; 55; 82; 126; 150; 164..
|
Trong Quốc âm
thi tập, ta bắt gặp người ẩn sĩ Nguyễn Trãi xuất hiện trong hai tư thế. Một
là đối đối thoại với chính lòng mình để trăn trở, suy tư về cuộc đời, hai là
dốc bầu tâm sự ngổn ngang với các “bầu bạn”. Ở đây, có một điều cần chú ý, khảo
sát 225 bài thơ, chúng tôi tuyệt nhiên không thấy Nguyễn Trãi xuất hiện trong
mối quan hệ với một bậc “tao nhân mặc khách” nào. Họa chăng, con người có xuất
hiện chỉ là những cổ nhân như: Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do, Đỗ Phủ... Trong
cuộc sống ẩn dật nơi điền viên thôn dã, Nguyễn Trãi chỉ sống trong mối quan hệ
thân thiết, gắn bó với cỏ cây, hoa lá. Ông coi đó như những bầu bạn, tri kỉ, cố
nhân để kí thác, gửi trao những nỗi niềm tâm sự. Có lẽ với Nguyễn Trãi, chỉ
những trúc, thông, mai, cúc, viên,
hạc, đèn, sách, non nước, trăng, mây... mới đủ sự trong sạch
để hiểu được tấm lòng thanh cao của người quân tử.
“Con lều mọn mọn cách hồng trần,
Vắng vắt tư mùa những bạn thân.
Trúc Tưởng Hủ nên thêm tiết cứng,
Mai Lâm Bô đơm được câu thần.
Đại phu non vắng là tri kỉ,
Tiên khách nguồn êm ấy cố nhân’’ (Bài 81)
“Rủ viên hạc xin phương cởi
tục,
Quyến mai trúc kết bạn tri
âm”. (Bài 119)
Bầu bạn với thiên nhiên, Nguyễn Trãi
tìm thấy được niềm vui, hứng thú trong cuộc đời vốn cô đơn buồn tẻ của mình.
Cũng từ đó, ông đã dành cho cúc, thông, viên, hạc những tình cảm
gắn bó sâu nặng. Những người bạn thiên tạo ấy trở thành “cái con”, “anh tam”, “tôi tớ”, “láng giềng” thân thiết, “ủ ấp”
cùng Nguyễn Trãi trong cuộc sống yên bình, thanh sạch chốn sơn thủy hữu tình.
“Núi
láng giềng chim bậu bạn,
Mây
khách thứa nguyệt anh tam”. (Bài 64)
“Rùa nằm hạc lẩn nên bầy bạn,
Ủ
ấp cùng ta làm cái con” (Bài 21)
“Bạn cũ thiếu ham đèn lẫn sách,
Tính
quen chăng kiếm trúc cùng mai.
...
Nghìn
đầu cam quýt ấy là tôi”. (Bài 13)
Xuất phát từ khao
khát giãi bày, sẻ chia, Nguyễn Trãi đã thổi hồn vào thiên nhiên vô tri giác
biến chúng thành những tri kỉ, tri âm gắn bó, thân thiết. Để rồi khi ông bơ vơ nơi
đất khách quê người, những người bạn tri âm ấy trở thành hoài niệm da diết hiện
hình trong mỗi cơn mơ, trong những đêm dài khó ngủ.
“Non quê ngày nọ chiêm bao thấy,
Viên hạc chăng hờn lại những thương”. (Bài 71)
Nguyễn Trãi không chỉ coi thiên nhiên
như đối tượng để chiếm lĩnh, để bày tỏ mà ông còn dành cho cỏ cây, hoa lá,
những người bạn thiên tạo ấy một tình yêu dịu dàng, một sự nâng niu, trân trọng
hiếm có.
“Viện có hoa tàn chăng quét đất,
Nước còn nguyệt hiện xá thôi chèo”. (Bài 32)
“Mai chăng bẻ thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun tiếc cháu rồng”. (Bài 50)
Sống hòa tan vào thiên nhiên, tận
hưởng cái tự do, thanh bạch của cuộc sống “nhàn dật”, Nguyễn Trãi cũng như các
nhà nho ẩn dật khác “khi miêu tả “cái tôi”, có chủ định rõ ràng khi gạt bỏ mối
quan hệ với cuộc sống xã hội và chỉ diễn tả mối quan hệ giữa “cái tôi” và môi
trường thiên nhiên” [42, 82]. Ông miêu tả thiên nhiên, cuộc sống điền viên, dân
dã như môi trường sống lý tưởng, coi những phút giây “tiêu sái lòng ngoài thế” giữa thiên nhiên nguyên sơ, hồn hậu ấy là
vô cùng đáng quý, đáng trân trọng:
“Một phút thanh nhàn trong thủa ấy,
Thiên kim ước đổi được hay chăng”. (Bài 16)
Với Nguyễn Trãi, chỉ có thiên
nhiên mới xứng đáng là bạn tri âm để ông giãi bày tâm sự, để kiếm tìm những
giây phút tự do, tự tại. Đó cũng là một phương cách để thể hiện khí tiết thanh
cao của người ẩn sĩ trong Quốc âm thi
tập.
2.1.2. Người ẩn sĩ say đắm những thú chơi tao nhã, thanh cao
Trở về với cuộc
sống ẩn dật, người ẩn sĩ luôn tự ý thức tách mình khỏi những cám dỗ của “tục lụy trần ai” hướng tới cuộc sống “tiêu sái lòng ngoài thế”. Trong nhận
thức, họ coi thường dục vọng về ăn, ở, mặc, về tiền bạc, danh lợi... và đề cao
những thú vui tinh thần, tao nhã, thanh cao.
Bảng
2.4: Thú chơi tao nhã của người ẩn sĩ trong Quốc
âm thi tập
stt
|
Thú chơi
|
Số lần
|
Tên bài
|
1
|
Ngắm trăng, xem hoa
|
47
|
2; 3; 4; 11; 16; 17; 18; 19; 21; 22; 23; 28; 32; 35;
42; 47; 48; 50; 52; 60; 73; 74; 76; 77; 82; 84; 88; 90; 95; 97; 105; 107;
110; 114; 118; 122; 126; 154; 155; 157; 158; 159; 160; 164; 165; 168; 170.
|
2
|
Ngâm thơ
|
25
|
3; 4; 9; 12; 17; 23; 31; 35; 43; 52; 55; 61; 72; 75;
76; 82; 84; 86; 89; 90; 114; 121; 157; 159; 169.
|
3
|
Trà
|
9
|
2; 3; 39; 48; 71; 73; 84; 154; 157.
|
4
|
Rượu
|
14
|
9; 12; 31; 41; 43; 61; 74; 76; 86; 89; 110; 114;
121; 186.
|
5
|
Đánh cờ
|
5
|
2; 41; 89; 90; 154.
|
Trong Quốc âm thi tập, những thú chơi ngắm trăng, thưởng hoa, trà, rượu,
ngâm thơ, đánh cờ... của các bậc “tao nhân, mặc khách” xưa được Nguyễn Trãi gọi
về một cách đầy đủ. Trải qua biết bao những thăng trầm, biến cố của cuộc đời,
Nguyễn Trãi mang theo tâm sự u uất của “Mùi
thế đắng cay cùng mặn chát” về ẩn cư tại Côn Sơn. Lúc này, ông tìm đến
thiên nhiên và những thú chơi tao nhã như một cách để giải tỏa những đau đớn
của tâm hồn, để làm ấm áp trái tim cô đơn nhói buốt.
“Cởi tục chè thường pha nước tuyết,
Tìm thanh trong vắt tiễn chè mai” (Bài
2)
“Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc,
Ngày tháng tiêu ma một bát chè”. (Bài
73)
“Ngon mùi đạo phên hoàng quyển,
Dã lòng sầu chén tử hà”. (Bài 114)
“Túi thơ bầu rượu quản xềnh xoàng,
Quẩy dụng đầm hâm mấy dặm đường”. (Bài 9)
Khi hòa mình vào những cuộc chơi tao nhã, Nguyễn Trãi đã
tìm được niềm vui, hứng thú cho cuộc sống của mình. Với Nguyễn Trãi, cái trầm
lắng, thanh sạch của chén “chè mai”
sẽ giúp ông cởi bỏ được những “tục lụy”
nơi thế sự, tìm được sự thanh sạch cho tâm hồn; thú ngắm trăng, thưởng hoa đem
đến cho ông trạng thái tiêu dao: “Tiêu
sái tự nhiên nhẹ hết mình”; còn “túi
thơ, bầu rượu” giúp trái tim lạnh giá cô đơn của ông trở nên ấm ấp hơn...
Tất cả cộng hưởng tạo hứng thú, niềm vui, mang đến cho Nguyễn Trãi một cuộc
sống an nhàn, tự tại.
“Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình,
Nài bao ngôi cả áng công danh.
Vô tâm đìa có trăng bạc,
Đắc thú kho đầy gió thanh”. (Bài 78)
Không
chỉ tìm đến các thú chơi tao nhã để giải tỏa tâm trạng, khai phóng tâm hồn,
người ẩn sĩ Nguyễn Trãi còn miêu tả chúng với một niềm say mê, khát khao chiếm
lĩnh cao độ.
“Nước dưỡng cho thanh đìa thưởng nguyệt,
Đất cày ngõ ải lảnh ương hoa.
Trong khi hứng động bề đêm tuyết,
Ngâm được câu thần dắng dắng ca”. (Bài 4)
“Tuyết đượm chè mai câu dễ động,
Trì in bóng nguyệt hứng thêm dài”. (Bài 83)
“Già chơi dầu có của no dùng,
Chén rượu câu thơ ấy hứng nồng.
Ngủ tênh hênh nằm cửa trúc,
Say lểu thểu đứng đường thông”. (Bài
61)
Trở
về sống ẩn dật, tách biệt với cuộc sống xung quanh, nhưng người ẩn sĩ Nguyễn
Trãi không buồn chán, không cô đơn bởi ông đã tìm được niềm vui cho riêng mình
trong những cuộc trà, rượu, trong những đêm thanh vắng ngắm trăng, thưởng hoa...
Trong những khoảnh khắc màu nhiệm ấy, tâm hồn người ẩn sĩ đã lắng nghe được những
biến động tinh vi của thiên nhiên, hòa tan cái bản ngã của mình vào tạo hóa, để
đạt được những mối giao cảm tuyệt bích.
“Hái cúc ương lan hương bén áo,
Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn” (Bài
60)
Có
lẽ những giây phút đối diện với thiên nhiên, hòa vào những thú chơi tao nhã,
trái tim người ẩn sĩ Nguyễn Trãi đã thu nhận được bao nhiêu “hứng nồng” để rồi rung
lên những cung bậc hạnh phúc nhất, thỏa mãn nhất mà trong cuộc đời của mình ông
ít khi gặp được. Với Nguyễn Trãi, trà, rượu, trăng không đơn thuần là để giải
trí nữa, ông xem đó như những “thú mầu”,
những phép tiên nâng tâm hồn ông đến với những phút giây tiêu dao thoát tục.
Trong những phút giây ít ỏi ấy, người ẩn sĩ Nguyễn Trãi xuất hiện với phong
thái ung dung, tự tại.
“Thiên thơ án sách qua ngày tháng,
Một khắc cầm nên mấy lạng vàng” (Bài
55)
“Mạc được thú mầu trong
thủa ấy,
Thế gian hay một khách
văn chương”. (Bài 42)
Tìm
về cuộc sống ẩn dật, ca ngợi, cũng như tận hưởng các thú chơi tao nhã là một
phần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của người ẩn sĩ Nguyễn Trãi. Đó
cũng là một phương cách để “cởi tục”,
“tìm thanh” khẳng định cốt cách thanh
cao, hướng đến thực thi cuộc sống “nhàn dật” mà ông vẫn hằng khao khát.
2.1.3 Người ẩn sĩ ối lập, xa lánh những đua chen chốn quan trường
Nho giáo đặt ra vấn đề tu thân “tồn thiên
lý, khử nhân dục” đối với tầng lớp nho sĩ. Để có thể hành đạo, bảo tồn thiên
lý, nho sĩ phải tránh xa những cám dỗ của đời sống vật chất. Họ ra làm quan để “nhập
thế” cứu đời chứ không chước cầu công danh, phú quý. Khi nhiệm vụ đã hoàn thành
hoặc không thể thực thi, họ tìm về cuộc sống ẩn dật, xa lánh những cám dỗ của
bả vinh hoa, phú quý để bảo toàn khí tiết. Trong nhận thức của nhà nho, “nhàn
dật” và lợi danh, phú quý là hai phạm trù đối lập. Từ đó nảy sinh hai mô hình thế
giới hoàn toàn tách biệt: “Nhàn dật” gắn với cuộc sống chốn lâm tuyền, thôn dã
- một không gian rộng lớn, khoáng đạt, sơn thủy hữu tình. Trong thế giới “tề
thị phi” ấy, nhà nho ẩn dật “trong khi mở rộng cửa đón thiên nhiên, hoa đồng cỏ
nội, vượn hạc đến tìm thì cũng khép cửa trước đám khách tục vãng lai, cao quan
hậu lộc” [34, 255], tuyệt giao với mọi biến động của cuộc đời, mọi cám dỗ của
tiền tài, danh vọng. Do vậy, họ tìm thấy sự thanh thản, tự do của tâm hồn. Công
danh, phú quý gắn với cuộc sống nơi quan trường chật hẹp. Ở đó, con người bị
kìm kẹp, đau khổ và biết bao hiểm nguy luôn rình rập.
Nguyễn Trãi là một nho sĩ suốt đời canh cánh khát vọng hành
đạo, cứu nước giúp đời. Nhưng những năm tháng ở chốn triều quan, ông luôn phải
gánh chịu sự nghi kị của bậc quân vương mà ông suốt đời gắn bó, sự kìm kẹp, đố
kị của bọn quyền thần. Một mình cô đơn giữa chốn quan trường hiểm hóc, Nguyễn
Trãi rơi vào đau đớn, tuyệt vọng khi nhận ra:
“Miệng thế nhọn hơn
chông mác nhọn,
Lòng
người quanh nữa nước non quanh”. (Bài 136)
“Ngoài chưng mọi chốn
đều thông hết,
Bui một lòng người cực
hiểm thay”. (Bài 26)
Chán chường sự thế “đắng
cay cùng mặn chát”, Nguyễn Trãi đã trở về Côn Sơn để tìm kiếm sự bình yên,
tự do cho tâm hồn.
“Dửng dưng sự thế biếng đôi
tranh,
Dầu mặc chê khen mặc dữ
lành”. (Bài 169)
Nguyễn Trãi tìm về ẩn cư tại Côn Sơn chỉ trong vòng
chưa đầy một năm (1439 - 1440), nhưng qua thơ ông, chúng ta thấy được đây là quãng
thời gian đủ để ông chiêm nghiệm về cuộc đời, nhân sinh, thế sự, về danh lợi,
tiền tài. Nguyễn Trãi nhận thức sâu sắc sự ảo hóa, phù du của phú quý, công
danh. Từ đó, ông đề cao cái tự do, tự tại của cuộc sống “nhàn dật”. Trong Quốc âm thi tập, sự đối lập giữa lợi
danh và “nhàn dật”, giữa chốn lâm tuyền và nơi triều quan được Nguyễn Trãi thể
hiện một cách sắc nét: 39/225 bài (phụ lục 2). Các cặp hình tượng đối lập: “công
danh” – “nhàn tự tại”, “cửa quyền” – “thanh nhàn”, “công danh”
– “cần câu”, “trúc mai” – “ngõ mận tường
đào”, “rừng thiền” – “đường thế”, “trường đào mận” – “quê cũ”,
“vườn lan cúc” – “áng mận đào”, “non lạ nước thanh” – “đất
phàm cõi tục”, “làm quan” –“thanh nhàn”, “áng trúc thông” – “cửa quyền
quý”... xuất hiện ở mức độ cao. Điều đó cho thấy sự nhận thức sâu sắc của Nguyễn
Trãi về vấn đề công danh và “nhàn dật”.
“Dưới công danh
đeo khổ nhục,
Trong dại dột có
phong lưu”. (Bài 3)
“Dưới công danh
nhiều thác cả,
Trong
ẩn dật có cơ mầu”. (Bài
159)
“Hiểm hóc của
quyền chăng đụt lẩn,
Thanh
nhàn án sách hãy đeo đai”. (Bài
6)
“Rừng thiền ắt
thấy nên đầm ấm,
Đường
thế nào nơi chẳng thấp cao”. (Bài
47)
“Đến trường đào
mận ngạc chăng thông,
Quê
cũ ưa làm chủ trúc thông”. (Bài
50)
“Những màng lẩn
quất vườn lan cúc,
Ắt
ngại lanh chanh áng mận đào”. (Bài
52)
Bằng
các cặp hình tượng trên, Nguyễn Trãi vẽ ra hai không gian sống đối lập: Thế
giới của khổ đau – thế giới của hạnh phúc. Khi ấy ông đứng ở giữa để chiêm
nghiệm, nhận xét. Ông khẳng định thế giới cửa quyền, thế tục đầy rẫy những “khổ nhục”, “hiểm hóc”, “tranh giành”.
Đó là một thế giới chật hẹp, ngột ngạt và quanh co, thậm chí mong manh, ảo hóa:
“Phú quý bao
nhiêu người thế gian,
Mơ mơ bằng thủa
giấc hòe an”. (Bài 63)
“Chẳng thấy phồn
hoa trong thủa nọ,
Ít nhiều gửi kiến
cành hòe”. (Bài 84)
“Phú quý treo
sương ngọn cỏ,
Công danh gửi
kiến cành hòe”. (Bài 73)
Sống trong thế giới chật hẹp, bụi bặm ấy, con người bị ràng buộc, mất tự
do, phải “lụy”, phải “nhục”, thậm chí phẩm chất, khí tiết còn
bị băng hoại đến mức Nguyễn Trãi phải thốt lên cay đắng.
“Ai ai đều đã
bằng nhau hết,
Nước
chẳng còn có Sử Ngư”. (Bài
36)
Ở đối cực ngược
lại, cuộc sống “nhàn dật” được miêu tả là thế giới tươi đẹp, đáng trân trọng. Ở
đó, con người được tận hưởng cuộc sống thanh thản giữa mây ngàn gió nội, nước
biếc non xanh, xa rời những bon chen, những hiềm khích mà lợi danh mang lại.
“Tiêu sái tự
nhiên nhẹ hết mình,
Nài bao ngôi cả
áng công danh.
Vô tâm đìa có
trăng bạc,
Đắc
thú kho đầy gió thanh”. (Bài
121)
Nhận thức sâu sắc sự đối lập giữa phú
quý và “nhàn dật”, Nguyễn Trãi cũng như các bậc hiền nhân thủa xưa đã lựa chọn
cuộc sống “nhàn” như một phương cách để thể hiện phẩm tiết thanh cao. Trong Quốc âm thi tập ta bắt gặp hai thế ứng
xử của Nguyễn Trãi. Với chốn quan quyền, ông “ngại thung thăng”, “ngại chen
chân”, “ngại lượm tay chân”, “ngại lanh chanh”… Với công danh, phú quý
thì ông “biếng vả vê”, “biếng đôi tranh”, “lòng đà ắt dửng dưng”... Còn với cuộc sống “nhàn dật”, Nguyễn Trãi
thể hiện một khát vọng chiếm lĩnh mãnh liệt.
“Ta ắt muốn nhàn
quan muốn lạnh,
Lo thay vì lụy
phải thờ ơ”. (Bài 108)
“Được nhàn ta ắt
xá tiêu diêu”. (Bài 116)
“Làm quan thơ dại
tài chẳng đủ,
Về ở thanh nhàn
hẹn đã hồng”. (Bài 61)
Khi đặt giữa hai sự lựa chọn: công danh hay “nhàn dật”, Nguyễn Trãi sẵn
sàng “Đem công danh đổi lấy cần câu”.
“Liệu cửa nhà xem bằng quán khách,
Đem công danh đổi lấy cần câu”. (Bài
30)
“Lấy biêu phú quý đổi biêu nhàn,
Có kẻ thì chê có kẻ khen” (Bài
124)
“Vườn còn thông trúc đương năm mẫu,
Câu ước công danh đổi một
cần”. (Bài 33)
Tuy nhiên cần phải khẳng định, vấn đề xem
nhẹ danh lợi, phù hoa, trân trọng những phút giây nhàn tản không phải là sản
phẩm tư tưởng của Nguyễn Trãi mà là một trong những nguyên tắc ứng xử có cội
nguồn sâu xa từ các hệ tư tưởng Nho - Đạo - Phật. Đào Uyên Minh thời Đông Tấn
đã từng để lại một danh ngôn: “Thà chết đói, tôi không thể khom lưng trước một
người xấu như vậy vì bổng lộc năm đấu gạo”. Khi chán nản cuộc sống trong vòng
cương tỏa của chốn quan trường hiểm hóc, ông đã cáo quan về quê ẩn dật để tỏ
thái độ xem thường phú quý danh lợi:
“Phú
quý phi ngô nguyện, đế hương bất khả kỳ,
Hoài lương thần
dĩ cô vãng, hoặc trượng nhi vân tỷ”.
(Quy
khứ lai từ)
(Giàu sang chẳng phải điều ta nguyện,
chốn đế hương không thể ước ao.
Nghĩ buổi sáng
đẹp trời một mình dạo chơi, hay dùng gậy làm cỏ vun mạ)
(Lời từ biệt khi về)
Trong bài phú Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca, vị Phật vương Trần Nhân Tông cũng đã khẳng định thái độ không
màng công danh, phú quý:
“Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng,
Tần Hán xưa nay,
Xem đà nhèn hạ”.
Ở phần lời kệ của
bài phú, Trần Nhân Tông lại một lần nữa khẳng định quan điểm của mình:
“Cảnh
tịch an cư tự tại lâm,
Lương phong xuy
đệ nhập tùng lâm.
Thiền sàng thọ
hạ nhất kinh quyển,
Lưỡng tự thanh
nhàn thắng vạn kim”.
(Cảnh lặng, sống yên, lòng tự tại,
Gió mát thổi đến dưới bóng cây thông.
Giường Thiền ở dưới gốc cây, kinh một
quyển,
Hai chữ thanh nhàn quý hơn vạn nén
vàng).
Nguyễn Trãi đã kế thừa nguyên tắc ứng xử với công danh, phú quý của các
bậc tiền nhân và áp dụng vào trường hợp của riêng ông, coi đó là một phương
cách để “minh triết bảo thân”, thể hiện cốt cách thanh cao của một bậc quân tử,
thực hành đúng đắn đạo lý của Nho gia.
Tóm lại, trong Quốc âm thi tập, tư tưởng “nhàn dật” của
Nguyễn Trãi đã được bộc lộ một cách cụ thể, rõ ràng ở ba khía cạnh. Thứ nhất, trở
về với thiên nhiên và cuộc sống điền viên đạm bạc. Thứ hai, say đắm với thi ca,
nhạc họa, với những thú chơi tao nhã. Thứ ba, đối lập “nhàn dật” với công danh,
phú quý. Đó là kết quả của sự kế thừa, học tập mô hình ứng xử văn hóa của Đào
Tiềm và sự tiếp nối dòng chảy truyền thống thơ “nhàn” trung đại. Tuy nhiên, cũng
phải khẳng định, đến Nguyễn Trãi, thơ “nhàn” trở nên dân dã hơn, gần gũi hơn
với điệu hồn dân tộc.
2.2. Chữ “nhàn” – Nơi ẩn chứa
những nỗi niềm riêng tư của Nguyễn Trãi
2.2.1. “Nhàn” là một mặt của những mâu thuẫn trong con người Nguyễn Trãi
Hình tượng cái tôi trữ tình trong Quốc âm thi tập xuất hiện với hai tư thế, hai con người hoàn toàn
trái ngược. Tư thế của một nhà nho ẩn dật trên hành trình về với thiên nhiên để
“độc thiện kì thân”, tận hưởng thú vui “nhàn dật” và tư thế của một nhà nho
hành đạo đang trăn trở khôn nguôi giữa hai bề xuất – xử.
“Lấy đâu xuất xử trọn hai bề,
Được thú làm quan mất thú
quê”. (Bài 109)
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều
Đông”. (Bài 50)
Hai
con người đó xuất hiện trở đi trở lại trong 225 bài thơ Quốc âm thi tập như một nỗi niềm day dứt lớn. Từ đó đặt ra câu hỏi,
Nguyễn Trãi đã thực sự sống “nhàn” chưa? Ông là nhà nho hành đạo hay nhà nho ẩn
dật?
Ở
mục 2.1, chúng tôi đã chỉ ra những biểu hiện trong tư tưởng cũng như cuộc sống “nhàn
dật” của Nguyễn Trãi. Thực tế, Nguyễn Trãi đã có những phút giây hạnh phúc, say
đắm hết mình khi hòa tan vào vạn vật, vào cỏ cây hoa lá, thi ca, nhạc họa trong
một thế giới “tề thị phi”, sơn thủy hữu tình. Nhưng ngoài những phút giây “lòng ngoài thế” ấy, ông vẫn luôn “canh cánh” trong lòng khát khao cống hiến,
khát khao hành đạo cứu đời của một nhà nho chân chính.
“Một thân lẩn quất đường khoa mục,
Hai chữ mơ màng việc quốc gia.
....
Quân thân chưa báo lòng canh cánh,
Tình phụ cơm trời áo cha”. (Bài 8)
“Nhân gian mọi sự
đều nguôi hết,
Một
sự quân thần chẳng khứng nguôi”. (Bài
106)
“Văn chương chép
lấy đòi câu thánh,
Sự nghiệp tua
thìn phải đạo trung.
Trừ độc trừ tham
trừ bạo ngược,
Có
nhân có trí có anh hùng”. (Bài
132)
“Vệ Nam mãi mãi
ra tay thước,
Điện
Bắc đà đà yên phận tiên”. (Bài 183)
Ước
mơ “kinh bang tế thế”, “vệ Nam”, “điện Bắc” luôn thường trực, canh cánh
trong trái tim, trong suy nghĩ của bậc đại nhân, đại trí đại dũng Nguyễn Trãi.
Ông khẳng định “niềm trung hiếu” với
triều đình, với dân tộc là “biêu cả”
– mục tiêu lớn của cuộc đời ông.
“Một niềm trung
hiếu làm biêu cả,
Hai
quyển thi thư ấy báu chôn”. (Bài
111)
Đặt giấc mơ cống hiến, khát vọng hành đạo là mục tiêu lớn trong cuộc đời
nên nhiều khi đang say đắm với thú vui của cuộc sống “nhàn dật”, Nguyễn Trãi
bỗng giật mình thảng thốt về nghĩa “quân
thân” như một sự giác ngộ về lý tưởng.
“Chân chăng lọt
đến cửa vương hầu,
Ấy tuổi nào thay
đã bạc đầu.
Liệu cửa nhà xem
bằng quán khách,
Đem công danh đổi
lấy cần câu.
Thân đà hết lụy
thân nên nhẹ,
Bụt ấy là lòng
Bụt há cầu.
Bui một quân thân
ơn cực nặng,
Tơ
hào chưa báo hãy còn âu”. (Bài
30)
Như vậy, cùng một
thời điểm, cùng một bài thơ, trong con người Nguyễn Trãi nảy sinh hai tâm trạng
đối nghịch: Khát khao “nhàn dật” và day dứt ước vọng hành đạo. Trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thống kê được
21 bài thơ có kết cấu tâm trạng như vậy (phụ lục 5). Trong các bài thơ dạng này,
cái tôi trữ tình Nguyễn Trãi mang những tâm trạng phức tạp. Khát khao sống “nhàn”
nhưng lại day dứt về lý tưởng hành đạo. Ngay cả khi hết mực ca tụng thú thanh
nhàn nhưng chung cục, Nguyễn Trãi vẫn khẳng định nghĩa “quân thân” là một tâm sự cháy bỏng, sẽ còn mãi dậy sóng “cuồn cuộn”, nhức nhối trong trái tim đầy
nhiệt huyết của ông.
“Đến tường đào
mận ngạc chăng thông,
Quê cũ ưa làm chủ
cúc thông.
Sầu nặng Thiếu
Lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc
Hải chén chưa không.
Mai chăng bẻ
thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun
tiếc cháu rồng.
Bui một tấc lòng
ưu ái cũ,
Đêm
ngày cuồn cuộn nước triều Đông”. (Bài 50)
Với
Nguyễn Trãi, nghĩa “quân thân”, “lòng ưu ái” không chỉ là nghĩa vụ, là lý
tưởng của nhà nho mà được đặt ra một cách da diết, thống thiết hơn bất kỳ ai!
Nó trở thành khát vọng, thành giấc mơ thường trực đêm ngày:
“Còn có một lòng
âu việc nước,
Đêm
đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”. (Bài 68)
Vậy
tại sao, dù triều đình nhà Lê đã gây ra cho Nguyễn Trãi biết bao uất ức, biết
bao nỗi đau nhưng ông vẫn không nguôi khát vọng cống hiến cho triều đình ấy? Để
lý giải điều này, ta cần xem xét mối quan hệ giữa ông và nhà Lê. Nguyễn Trãi là
bậc khai quốc công thần, ông gắn bó với nhà Lê bằng cả xương máu, nhiệt huyết
của cuộc đời mình, đã từng “nếm mật nằm gai”, “Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” với chủ tướng Lê Lợi. Do vậy, dù
có bị phụ bạc, nhưng với một bậc đại nhân như Nguyễn Trãi, ông không thể nào
quên, hay từ bỏ triều đình ấy. Nguyễn Trãi
vẫn ngày đêm “cuồn cuộn” một “tấc lòng ưu ái cũ” giành cho triều Lê.
Điều này dẫn đến một hệ quả, dù Nguyễn Trãi có hết lòng ca tụng thú thanh nhàn
thì với ông “nhàn” chỉ mãi là một khát vọng chưa đạt được mà thôi. Nguyễn Trãi
đã tìm về với cuộc sống “nhàn dật” nơi núi thông, rừng trúc ở Côn Sơn trong
những năm tháng cuối đời nhưng trên thực tế, ông chưa bao giờ đạt được cuộc
sống thanh nhàn, thân sống “nhàn” nhưng tâm vẫn còn day dứt nỗi niềm “quân thân”, một khát vọng cống hiến cho
dân cho nước.
Như vậy, có thể
khẳng định, về bản chất, Nguyễn Trãi là một nhà nho hành đạo mang nặng tâm sự
ưu thời mẫn thế. Cái “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là sự thể hiện một mặt
của những mâu thuẫn trong con người ông. Đó là cái “nhàn” nằm trong khuôn khổ
phép xử thế “hành - tàng”, “xuất – xử” của Nho giáo. Với Nguyễn Trãi, “nhàn” là
để lánh đời, thực hiện vấn đề “minh triết bảo thân”, là “chờ thời” cho một cuộc
“hành đạo” kế tiếp.
2.2.2. “Nhàn” là một sự lựa
chọn bất đắc dĩ của Nguyễn Trãi
Khi
tìm hiểu Quốc âm thi tập và cuộc đời
Nguyễn Trãi, một câu hỏi lớn lại đặt ra, tại sao một người đã dành tình cảm sâu
nặng cho dân, cho nước và triều đình nhà Lê như Nguyễn Trãi lại cáo quan về ở
ẩn, tìm kiếm cuộc sống “nhàn dật”? Để rồi từ đó, ông sống mãi trong nỗi niềm
day dứt khôn nguôi vì cho rằng mình đã sống uổng phí thân nhàn, uổng phí cuộc
đời. Nguyễn Trãi sống “nhàn”, nhiều khi hết mực ca tụng thú thanh nhàn nhưng
thực chất trong con người ấy vẫn mang nặng một tâm sự bất đắc chí. Trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thống kê được
19 bài thơ thể hiện tâm trạng buồn chán, bất đắc chí khi buộc phải sống “nhàn”
của Nguyễn Trãi (phụ lục 3).
“Uổng có thân hèn
cực thửa nuôi,
Ghe đường dại dột
mỗ nên xuôi
...
Nhân gian mọi sự đều nguôi hết,
Một
sự quân thần khứng chẳng nguôi”. (Bài
106)
“Niềm cũ sinh
linh đeo ắt nặng,
Cật chưng hồ hải
đạt chưa an.
Những vì thánh
chúa âu đời trị,
Há
để thân hèn tiếc tuổi tàn”. (Bài
72)
Trong
nỗi đau đớn khôn nguôi của một tài năng bị kiềm tỏa, một khát vọng bị vùi dập,
Nguyễn Trãi tự nhận mình là “hèn”, là
kém cỏi và xót xa cho công lao sinh thành giáo dưỡng của cha mẹ. Ông cho rằng
sống “nhàn” là đã “phụ triều đình”, “phụ nhà” và đó là cái tội lớn của người
quân tử.
“Ngồi coi tháng
trọn mấy ngày qua,
Luống phụ triều
đình luống phụ nhà.
Đầu kế lăng căng
những hỗ,
Thân
hèn lục cục mỗ già”. (Bài
94)
Nguyễn Trãi mong muốn trở về cuộc sống “nhàn dật” để tìm kiếm sự thanh
thản nhưng thân sống “nhàn” mà tâm chẳng “nhàn” bởi “Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng”. Từ đó, ông rơi vào tấn bi kịch tinh
thần đau đớn. Vậy nguyên nhân nào đã đưa đẩy Nguyễn Trãi rơi vào bi kịch tinh
thần đau đớn ấy? Câu trả lời được tìm thấy trong chính cuộc đời đầy những mâu
thuẫn, bi kịch của ông. Lịch sử đã ghi nhận sự xuất hiện của Nguyễn Trãi và
chính sách “mưu phạt tâm công” là một
nhân tố quan trọng để đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến thắng lợi. Đối với đất
nước, ông là một anh hùng dân tộc. Đối với nhà Lê, ông là một bậc công thần
khai quốc. Thế nhưng, ngay khi cuộc kháng chiến thắng lợi, bước vào thời kỳ xây
dựng đất nước, ổn định xã hội, Nguyễn Trãi rơi vào hàng loạt những tấn bi kịch
đau đớn, những mâu thuẫn giằng xé. Nguyên nhân dẫn đến hàng loạt các bi kịch trong cuộc đời Nguyễn Trãi đã được nhiều
học giả lý giải. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng, bi kịch mà Nguyễn
Trãi phải gánh chịu là do ông đã gặp phải những mâu thuẫn, xung đột không thể
dung hòa, giải quyết được trong ngày một, ngày hai. Mâu thuẫn thứ nhất Nguyễn
Trãi gặp phải là mâu thuẫn giữa lý tưởng “nhân nghĩa” mà ông muốn thực thi với
sự chuyên quyền của bộ máy cai trị quân chủ phong kiến mà đứng đầu là Lê Lợi.
Nếu như trong cuộc kháng chiến chống Minh, ông và Lê Lợi là hai người đồng chí
hướng, cùng “nếm mật nằm gai” thì giờ đây ông bị ghẻ lạnh, bị xem thường, bị
gạt sang một bên. Đó là chung cục bi đát của những thần tử tài năng che
khuất thiên tử. Dù vẫn được làm quan nhưng chỉ là chức “quan thanh”, không đủ
để ông có thể thực hiện lý tưởng “trí quân trạch dân” của mình. Tài năng và nhiệt huyết nhưng giờ đây, Nguyễn Trãi
khác gì “con chim đại bàng không được tung cánh bay”. Uất ức, đau đớn, Nguyễn
Trãi ngỡ tưởng mình như một cung tần bị ghẻ lạnh sống trong nỗi cô đơn vô bờ
bến:
“Trường văn nằm ngả mấy thu dư,
Uổng tốn công nhàn biện lỗ ngư.
Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ,
Có lòng bằng trúc mỗ nên hư.
Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ,
Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư.
Chỉn xá lui mà thủ phận,
Lại tu thân khác mặc thi
thư”. (Bài 34)
Qua bài thơ, ta thấy nỗi lòng đau đớn của một “cô trung”, khát khao cống
hiến nhưng lại phải sống “uổng tốn công
nhàn”. Cũng từ đó, Nguyễn Trãi cay đắng nhận ra sự đen bạc của lòng người,
sự hiểm hóc ở chốn quan trường, ông tự dặn lòng: “Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ; Có lòng bằng trúc mỗ nên hư”. Nhưng
dù có thận trọng đến mấy, ông cũng khó tránh khỏi những tai họa từ chốn quan
trường. Trên thực tế, ông cũng đã từng bị triều đại mà ông cống hiến bằng xương
máu, vị vua mà ông dùng cả tâm huyết của mình phò tá bỏ tù. Trong bài thơ chữ Hán
Oan thán, Nguyễn Trãi đã bày tỏ tâm
trạng đau đớn.
“Phù tục thăng trầm ngũ thập niên,
Cố sơn tuyền
thạch phụ tình duyên.
Hư danh thực
họa thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên”. (Oan thán)
(Nổi chìm trong phù tục đã năm chục
năm,
Đành phụ tình duyên với khe và đá của
núi cũ.
Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn
cười,
Lắm kẻ ghét một mình trung,
rất đáng thương hại) (Than oan)
Đau đớn, tuyệt vọng trước trước thực tại phũ phàng ấy, Nguyễn Trãi tìm
đến cuộc sống “nhàn” là một lựa chọn duy nhất và bất đắc dĩ .
Mâu thuẫn thứ hai Nguyễn Trãi gặp phải
phức tạp, mãnh liệt hơn. Đó là sự xung đột giữa định hướng văn hóa Nho giáo hóa
xã hội mà Nguyễn Trãi là người chủ súy với các định hướng văn hóa ngược chiều.
Điều này đã được Trần Ngọc Vương giải thích một cách cụ thể: “Bởi chính ông
(Nguyễn Trãi) là linh hồn của định hướng Nho giáo hóa xã hội và nhà nước mà ông
đã trở thành đối tượng của tất cả những phản ứng nghịch chiều” [49, 262]. Khi
bước vào xây dựng thể chế triều đình nhà Lê, Nguyễn Trãi là người chủ trương
Nho giáo hóa nhà nước và xã hội. Trong khi đó, đa số những quyền thần, tông
thích nhà Lê đều xuất thân từ môi trường văn hóa dân gian, chịu ảnh hưởng sâu
đậm của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, hơn nữa họ là những người có trình độ
văn hóa thấp, không được đào tạo cơ bản nên thường phản ứng theo lối kinh
nghiệm chủ nghĩa. Do vậy, ở chốn triều đình, “Nguyễn Trãi cô đơn, cô đơn tuyệt
đối giữa những đại thần như thế” [49, 263]. Do không cùng lý tưởng, Nguyễn Trãi
đã phải hứng chịu những sự khinh khi, dè bỉu, giễu cợt từ những quyền thần,
tông thích nhà Lê. Điều này khiến ông vô cùng đau đớn:
“Mùi thế đắng cay cùng mặn chát,
Ít nhiều đã vẽ một hai phen”. (Bài 46).
“Mựa trách thế gian lòng đạm bạc,
Thế gian đạm bạc đấy lòng
thường”. (Bài 125)
Không chỉ cô đơn ở chốn triều quan,
Nguyễn Trãi còn cô đơn tuyệt đối trong mối quan hệ với làng xã. Trong Quốc âm thi tập, tuyệt nhiên không thấy
Nguyễn Trãi xuất hiện trong mối quan hệ làng xã. Điều này được Trần Nho Thìn lý
giải bằng những giả định: “Có thể nghĩ rằng ở thời Trần hay Lê sơ, các nhà Nho
Việt ở buổi đầu còn đầy hăng hái trong việc truyền bá đạo Nho chưa có kinh
nghiệm về các cuộc xung đột văn hóa giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa làng xã
nên còn nhiều cứng nhắc, nguyên tắc thô cứng” [42, 230]. Điều đó dẫn đến kết
quả là mối quan hệ của nhà nho với làng xã không mấy tốt đẹp.
Như
vậy, Nguyễn Trãi là một nhân vật cô đơn. Ông bị cô lập một cách tuyệt đối trong
cả ba mối quan hệ: quan hệ với vua – người tri kỷ từ thủa còn “nếm mật nằm gai”,
quan hệ với các đại thần trong triều, quan hệ với làng xã. Từ đó, ông rơi vào
bi kịch tinh thần đau đớn, tuyệt vọng. Nguyễn Trãi khát khao cống hiến nhưng không
thực hiện được, ông bất đắc dĩ phải ở vào thế ngồi nhìn sự thế xoay vần. Ông vô
cùng hoang mang, cay đắng và bất lực khi nhận thấy mình tựa như chiếc “thuyền
mọn” mỏng manh, nhỏ bé giữa sông nước mênh mông, mịt mùng bóng tối mà không
biết sẽ về đâu!
“Thuyền mọn còn
chèo chăng khứng đỗ,
Trời
ban tối ước về đâu”. (Bài
14)
Vận trị cùng loàn
chuẩn mặc thì,
Bằng
ta sinh uổng có làm chi”. (Bài
100)
Cô đơn và bất lực
trước sự hiểm hóc của lòng người, sự quanh co của thế sự, Nguyễn Trãi không còn
lựa chọn nào khác là trở về Côn Sơn sống cuộc đời “nhàn dật” giữa núi thông,
rừng trúc để tạm nguôi ngoai nỗi đau đời đến cháy bỏng. Có lẽ, đây là con đường
duy nhất mà ông có thể đi để giữ gìn phẩm tiết, lý tưởng, để an ủi trái tim cô
đơn và cũng là để bảo toàn tính mạng chờ một ngày có thể thực hiện lý tưởng của
một “Kẻ tư văn sinh đất Việt”.
Tìm đến thiên nhiên như một niềm an ủi, cũng có những khoảnh khắc, Nguyễn
Trãi tìm được niềm vui thực sự cho tâm hồn nhưng cũng có khi chỉ là một thứ
“vui là vui gượng”. Trong những lúc bất đắc dĩ phải sống “nhàn” ấy, Cuộc sống “nhàn
dật” được Nguyễn Trãi miêu tả như một cách phản ứng với cuộc đời và những nỗi
đau mình gặp phải.
“Sự thế dữ lành ai
hỏi đến,
Bảo
rằng ông đã điếc hai tai”. (Bài
6)
“Ít nhiều tiêu
sái lòng ngoài thế,
Năng
một ông này đẹp thú này”. (Bài
11)
“Dầu Bụt dầu tiên
ai hỏi đến,
Ông
này đã có thú ông này”. (Bài
28)
Nguyễn Trãi cực
tả cuộc sống “nhàn”, nhưng khi đọc lên ta thấy phảng phất trong đó một cảm giác
lên gân, một chút gì hờn trách. Thực ra, những câu thơ ca tụng thú thanh nhàn
ấy chỉ là một “cách nói dỗi”, một sự gồng mình chống chọi với những nỗi đau đời,
một giải pháp để xoa dịu, an ủi trái tim đang tổn thương vì những khát vọng
mãnh liệt không thể thực hiện của Nguyễn Trãi.
Nhìn một cách tổng thể, chúng ta có thể khẳng định cuộc đời Nguyễn Trãi
chứa đầy mâu thuẫn, bi kịch. Cuộc sống “nhàn dật” mà ông bất đắc dĩ phải lựa
chọn chỉ là một đối cực của những mâu thuẫn ấy. Trong con người ông, đồng thời
xuất hiện hai cá thể nghịch chiều: Một nhà nho ẩn dật ca tụng thú thanh nhàn và
một nhà nho hành đạo khôn nguôi day dứt nỗi niềm “Quân thân chưa báo lòng canh cách”. Trên thực tế, dù có ca ngợi
cuộc sống “nhàn dật” nhưng với Nguyễn Trãi, con người hành đạo vẫn thắng thế,
phò vua giúp nước vẫn là mục tiêu lớn nhất. Điều này được lý giải bằng thái độ
cảm kích, hành động hăng hái nhập cuộc của Nguyễn Trãi khi được Lê Thái Tông
nhìn nhận đúng đắn tài năng. Năm 1440, Khi đã 60 tuổi, ông được Lê Thái Tông
mời trở lại triều đình. Nguyễn Trãi từ giã cuộc sống “nhàn dật” nơi Côn Sơn trở
về triều đình.
Như vậy, “nhàn
dật” đối với Nguyễn Trãi chỉ là một ứng xử tạm thời, một sự lựa chọn bất đắc dĩ
để bảo toàn khí tiết, chờ đợi cơ hội nhập thế hành đạo.
2.2.3 “Nhàn” – một giải pháp an
ủi trái tim cô đơn
Trải qua những năm tháng cuộc đời với biết bao sóng gió, bi kịch, bị cô
lập hoàn toàn trong mọi mối quan hệ xã hội, trái tim nhạy cảm của Nguyễn Trãi
thấm đẫm nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Vì vậy, dù trong lòng ông, khát vọng hành đạo
còn trào dâng mãnh liệt nhưng ông chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất là trở về
với cuộc sống “nhàn dật” như một giải pháp an ủi trái tim đang tổn thương, rỉ
máu của mình.
Trong Quốc âm thi tập, hình tượng nhân vật trữ tình nhiều khi xuất hiện
với hình ảnh “tuổi già”, “tóc bạc”. Sự xuất hiện của những hình
ảnh này như một biểu tượng cực tả sự mệt mỏi, chán chường của Nguyễn Trãi trước
cuộc đời.
“Gia sơn cũ còn
mường tượng,
Thân
sự già biếng nói năng”. (Bài
98)
“Tuổi tàn cảnh đã
về ban muộn,
Tóc
bạc biên khôn chốc lại xanh”. (Bài
113)
“Phong sương đã
bén biên thi khách,
Tang tử còn
thương tích cố gia”.
(Quy Côn Sơn trùng cửu ngẫu tác)
Trong văn học Trung đại, “tuổi già”, “tóc bạc” là những hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng cho nỗi
sầu vạn cổ của con người trước thời gian vô thủy vô chung. Trước sự choáng ngợp của dòng thời
gian vĩnh hằng bất tận ấy, nỗi buồn tủi về cuộc đời, những day dứt về lẽ “xuất
- xử” càng thấm sâu, gặm nhấm trái tim cô đơn của người “cô trung” Nguyễn Trãi.
“Tuổi
đã năm mươi đầu đã bạc,
Ý còn bìu rịn lấy chi vay”. (Bài
75)
Với tâm trạng buồn tủi, Nguyễn Trãi tự ví mình như một “khách tha hương”
lạc loài, bơ vơ nơi đất khách quê người xa xôi “ngàn dặm”, khát khao trở về “gia
sơn”, “cố sơn”.
“Gia sơn đường
cách muôn dặm,
Ưu
ái lòng phiền nửa đêm”. (Bài
115)
“Ngàn dặm xem mây
nhớ quê,
Chẳng
nhờ gói ấn gượng xin về”. (Bài
155)
Những tiếng “gia sơn”, “cố sơn” vang lên trong thơ, trong tâm hồn Nguyễn Trãi như một nỗi
niềm tha thiết, nỗi nhớ da diết, thường trực. Khi mỗi giấc mơ về hay trong
những đêm phiền muộn, hình ảnh thân quen ấy lại hiện về, trở đi trở lại ôm ấp,
xoa dịu trái tim cô đơn, rỉ máu của đứa con xa quê, để rồi biết bao hình ảnh
thân quen của cuộc sống yên bình vọng về thổn thức.
“Non quê ngày nọ
chiêm bao thấy,
Viên
hạc chăng hờn lại những thương”. (Bài
71)
Với Nguyễn Trãi, “gia sơn”, “cố sơn”, “non quê” là một điểm hẹn lý tưởng cho
ước vọng trở về. Đó là một khát vọng thường trực trong tâm hồn ông. Trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thống kê được
30 bài thơ thể hiện khát vọng sống “nhàn” của Nguyễn Trãi (phụ lục 4). Không
chỉ trong thơ Nôm, ước vọng “quy ẩn” còn được ông bày tỏ cả trong những sáng
tác chữ Hán.
“Miên tưởng cố viên tam kính cúc,
Mộng hồn dạ dạ thướng quy đao.”
(Thu nhật ngẫu thành)
(Nhớ nhung vườn
cũ ba dặng cúc,
Hồn mộng đêm đêm lên
thuyền mà về).
(Ngày thu ngẫu nhiên làm)
Trong
hoài niệm tha thiết, cuộc sống tiêu dao, tự tại nơi cảnh cũ, non quê được
Nguyễn Trãi vẽ nên vô cùng tươi đẹp, lý tưởng. Đó là một cuộc sống thanh bình
giữa mây ngàn, gió nội, không có những tranh giành, đua chen, hiềm khích. Ở đó,
trái tim cô đơn, tổn thương của ông được xoa dịu, an ủi trong tình bạn ấm áp
của thiên nhiên, trăng, hoa, viên, hạc…
“Núi láng giềng
chim bầu bạn,
Mây
khách khứa nguyệt anh tam”. (Bài
64)
Trong thế so sánh
không gian hiện thực – nơi “cửa quyền
hiểm hóc” và không gian trong hoài niệm – “gia sơn”, “cố sơn”, trái
tim mang đầy vết thương đau của Nguyễn Trãi lại vang lên những câu hỏi thống
thiết “Ta còn lẵng đẵng làm chi nữa”.
Những câu hỏi ấy vang lên như một sự chối từ chốn quan trường đầy hiểm hóc,
đồng thời thể hiện khát khao về một cuộc sống nhàn tản, ưu du, khát khao trở về
làm bạn với yên, hoa, phong, nguyệt.
“Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa,
Sá tiếc mình chơi áng thủy vân”. (Bài 29)
“Ấy còn cậy cục làm chi nữa,
Nếu cốt chưa nòng chẫm chửa toan”. (Bài 63)
“Ta còn lẵng đẵng làm chi nữa,
Tượng có trời bày đặt vay”. (Bài 45)
Như vậy, muốn
thoát khỏi cô đơn, bế tắc trong cuộc hành đạo bất thành, Nguyễn Trãi đã mong
muốn tìm đến với cuộc sống “nhàn dật” như một giải pháp an ủi, xoa dịu những
đắng cay, buồn tủi mà ông từng trải qua. Càng cay đắng, chán chường bao nhiêu,
ông càng khát vọng sống “nhàn” bấy nhiêu, cuộc sống “nhàn dật” trở thành ước
vọng tha thiết đối với Nguyễn Trãi.
Có thể khẳng
định, cuộc sống “nhàn dật” chốn sơn thủy hữu tình cùng những thú tiêu dao, thoát
tục là niềm khát khao, mong ước trên hành trình “lánh đục về trong” của tầng
lớp nho sĩ, bởi đó là môi trường thuận lợi để họ thực hiện vấn đề “minh triết
bảo thân”, cũng như thể hiện cốt cách thanh cao. Nguyễn Trãi cũng mang trong
mình mong ước “độc thiện kì thân” ấy. Hơn thế nữa, sống “nhàn” với ông còn trở
thành một khát vọng mãnh liệt, thường trực bởi ông xem đó như một giải pháp hữu
hiệu để làm dịu bớt những đắng cay trong tâm hồn. Tuy nhiên cũng cần khẳng
định, mặc dù khát khao sống “nhàn” đến mãnh liệt nhưng “nhàn” vẫn không phải là
mục tiêu lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Với ông, “nhàn” chỉ là một hướng
đi, một sự lựa chọn bất đắc dĩ trên con đường hành đạo bất thành. Tuy là lựa
chọn bất đắc dĩ nhưng hết sức cần thiết.
Nhìn một cách
khách quan, tư tưởng “nhàn dật” trong Quốc
âm thi tập, được thể hiện ở tầm vi mô. Đó là một nội dung mang tính cá
nhân, là quan niệm, hướng đi của Nguyễn Trãi để cân bằng cuộc sống của chính
mình. Như đã biết, Quốc âm thi tập
được sáng tác chủ yếu trong thời gian Nguyễn Trãi trở về quy ẩn tại Côn Sơn
(1439 - 1440). Đây là thời kì xã hội phong kiến Việt Nam dần đi vào nề nếp, ổn
định. Tuy có những rối ren, xung đột trong nội bộ tầng lớp thống trị nhưng chưa
đến mức khủng hoảng, thối nát để các nho sĩ phải chán chường và phản ứng mãnh
liệt bằng biện pháp treo ấn từ quan. Vì vậy, rõ ràng, cách hành xử của Nguyễn
Trãi trong việc lựa chọn cuộc sống ẩn dật có nguyên nhân từ chính cuộc đời đầy
rẫy bi kịch của ông.
Tóm lại, “nhàn dật” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là một tư tưởng mang tính
cá nhân, hướng nội. Tư tưởng này là kết quả được rút ra từ những chiêm nghiệm
của Nguyễn Trãi về chính cuộc đời đắng cay, bi kịch của mình. Vấn đề sống
“nhàn” với Nguyễn Trãi, một mặt được đặt ra thống thiết như một nhu cầu cá
nhân, một giải pháp để giải tỏa những uẩn ức, an ủi trái tim cô đơn, tuyệt vọng.
Mặt khác nữa, sống “nhàn” lại là một nỗi day dứt khôn nguôi giữa hai bề xuất –
xử.
* Tiểu kết
Tư
tưởng “nhàn dật” của Nguyễn Trãi là sự tiếp nối dòng mạch của tư tưởng “nhàn
dật” trong văn học trung đại. Tư tưởng này được thể hiện qua hình tượng người
ẩn sĩ trong mối quan hệ với thiên nhiên, với những thú chơi tao nhã và ý thức
đối lập với công danh phú quý.
Trong Quốc âm thi
tập, tư tưởng “nhàn dật” không chỉ dừng lại ở cuộc sống tiêu dao, tự tại
giữa thiên nhiên cùng thi, ca, nhạc, họa, trăng, nước, mây, trời... mà được thể
hiện khá phức tạp. Một mặt, “nhàn” được đặt ra như niềm mong ước lớn của Nguyễn
Trãi. Mặt khác, “nhàn” lại được thể hiện như một nỗi niềm day dứt, tiếc nuối
khôn nguôi, Nguyễn Trãi tiếc thân nhàn, tiếc tuổi nhàn và khát khao hành đạo.
Sở dĩ có những mâu thuẫn, phức tạp ấy là do những bi kịch từ cuộc đời Nguyễn Trãi đã ảnh hưởng đến tư tưởng “nhàn dật” của
ông. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng “nhàn dật” mới chỉ dừng lại như một quan niệm
sống cá nhân được đúc rút từ chính cuộc đời ông và cũng được sử dụng như một
giải pháp để điều hòa cuộc sống, an ủi trái tim cô đơn của ông.
Chương 3
“NHÀN” TRONG BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP – TRIẾT LÝ
SỐNG GIỮA THỜI LOẠN
3.1 Dấu ấn thơ “nhàn” trung
đại trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm
3.1.1 Hòa hợp với thiên nhiên
thanh sạch
Trong dòng chảy êm ả của thơ “nhàn” trung
đại dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện với một dấu ấn khá đậm nét. Những sáng
tác của ông đã góp một phần quan trọng trong việc đưa thơ ca ẩn dật trở thành
khuynh hướng sáng tác chủ đạo của văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Cũng như Nguyễn
Trãi và các nhà nho ẩn dật tiền bối, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống ẩn
dật, hòa hợp với thiên nhiên, coi đó như là một môi trường sống lý tưởng và lấy
“nhàn dật” là lẽ sống trên con đường thực hiện lý tưởng “độc thiện kì thân”.
Sau tám năm lưu lạc chốn
quan trường chật hẹp, Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về với cuộc sống ẩn dật trong một
không gian rộng lớn, khoáng đạt, làm bạn với thiên nhiên, vui cảnh điền viên
dân dã. Giống như con chim bằng được tung cánh giữa bầu trời tự do, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã sống hết mình với thú vui “nhàn dật”. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, cái tôi trữ tình tác giả được thể hiện
qua hình tượng người ẩn sĩ với tư thế ung dung, tự tại, một “ông nhàn” trong mối quan hệ mật thiết
với môi trường thiên nhiên thanh sạch, mĩ lệ.
“Giang sơn bốn mặt là tranh vẽ,
Phong cảnh tư mùa ấy gấm thêu”. (Bài 8)
“Bạch Vân am vắng chim kêu muộn,
Kim tuyết dòng thanh cá mát tươi”. (Bài 109)
Với
mong muốn giao hòa tuyệt đích với thiên nhiên, và bằng nội cảm tinh tế, cái tôi
trữ tình người ẩn sĩ trong Bạch Vân quốc
ngữ thi tập đã khai phóng nhãn quan hướng về không gian mênh mông của “giang sơn bốn mặt”, thu nhận mọi vẻ đẹp,
sắc màu để vẽ nên bức tranh sơn thủy hữu tình. Đồng thời, người ẩn sĩ cũng dùng
năng lực thần kỳ của ngòi bút bắt thời gian bốn mùa ngưng đọng dệt nên bức gấm
thêu, tô điểm cho cuộc sống tự tại, thoát tục của mình. Trong sự ngưng đọng,
tĩnh tại của không, thời gian vô thủy vô chung, “ông nhàn” hiện lên với tư thế ung dung, nhàn tản của một tiên ông,
đạo sĩ đang cố gắng hòa tan cái bản ngã của mình vào thiên nhiên tạo vật trong
một niềm thích thú cực điểm.
“Ngắm chơi trải miền thôn dã,
Hóng mát từng vui chốn thạch bàn.
Một cỏ hoa đều đủ được,
Rất vời thong thả cõi trần gian”. (Bài 142)
Trong trạng thái tinh
thần đầy lạc thú ấy, “ông nhàn”
Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về bầu bạn với những tri âm muôn thuở, tìm về với những
thú chơi tao nhã, những chén rượu, câu thơ, trăng thanh gió mát... để tiêu dao
qua ngày tháng.
“Cày mây, cuốc nguyệt, gánh sơn hà,
Nào của nào chăng phải của ta.
Đêm, đợi trăng cài bóng trúc,
Ngày, chờ gió thổi tin hoa”. (Bài 17)
“Thuyền phong nguyệt gánh yên hà,
Mượn lấy giành làm của ta.
Cây tĩnh, chim về xanh loáng khói,
Ao thanh, cá lội nước tuôn là”. (Bài 117)
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “mây’, “nguyệt”, “yên hà”... không còn là một cái gì đó
mông lung, xa vời của vũ trụ bao la mà đã được ông đưa về hạ giới, tô điểm cho
khu vườn ẩn dật. Cũng có thể, bằng tâm hồn khát khao hòa nhập vào thiên nhiên
thanh sạch mà ông nhận thấy trong khu
vườn giản dị của mình như chứa đầy những thú vui của cuộc sống ẩn dật. Dường
như trong khi ấy, “mọi cảnh sắc của thiên nhiên (mây, khói, yên hà) đều là của
cải cung cấp vô vàn hứng thú cho người ẩn dật” [18, 67]. Nhờ nắm bắt được vẻ
đẹp, những hứng nồng từ thiên nhiên thanh sạch mà cuộc sống ẩn dật của “ông nhàn” trở nên vô cùng phong phú và hấp
dẫn.
“Non nước có màu lòng khách chứa,
Trúc mai làm bạn hứng thêm nồng’. (Bài 30)
“Cảnh có nước non nhàn được thú,
Hứng vì thơ rượu chở qua ngày”. (Bài 32)
“Hứng ý miệng ngâm câu quốc ngữ,
Giải phiền tay chuốc chén quỳnh xuân”. (Bài 86)
Trong những giây phút tự tại ấy, “ông nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên với
những nét thật gần gũi với phong cốt tiêu dao, phóng túng của thi tiên Lý Bạch.
Khi xưa, thi tiên tìm đến với thơ, rượu, nàng trăng như những tri âm, tri kỉ,
những người bạn đồng hành trên con đường phiêu du, thưởng ngoạn cảnh đẹp sơn
thủy hữu tình trong thiên hạ.
“Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân”. (Nguyệt
hạ độc chước)
(Có rượu không có bạn,
Một mình chuốc dưới hoa.
Cất bóng mời trăng sáng,
Mình với bóng là ba)
(Một mình uống rượu dưới trăng)
Thì nay, “ông nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng say hết
mình với gió mát, trăng thanh, câu thơ, chén rượu... trong một cuộc sống tự
tại, thoát tục.
“Có thủa lên lầu ngồi đợi nguyệt,
Một mình uống lại một mình kham”. (Bài 33)
“Vếu váo câu thơ cũ rích,
Khề khà chén rượu hăng xì.
Trăng thanh gió mát là tương thức,
Nước biếc non xanh ấy cố tri”. (Bài 84)
Không chỉ tiêu dao quên ngày tháng bằng những thú
vui tao nhã, thanh cao, “ông nhàn” Nguyễn
Bỉnh Khiêm còn phác họa một bức tranh cuộc sống “nhàn dật” giản dị, dân dã giữa thiên nhiên
thanh sạch với những “xôi măng trúc”,
“canh cua rốc”, những “cơm vàng”... đạm bạc.
“Xôi
măng trúc thèm thay thịt,
Đắp áo sô to lạnh kẻo chiên”. (Bài 19)
“Thu
ăn măng trúc đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. (Bài 73)
Từ bỏ quan
lộc, trở về với cuộc sống của nền kinh tế tự cung tự cấp, dựa vào những sản vật
trong thiên nhiên, người ẩn sĩ tự tách mình ra khỏi cuộc sống hưởng thụ vật
chất để khẳng định khí tiết và phẩm giá. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy, ông vui
sống với cảnh điền viên đạm bạc, tận hưởng của kho vô tận từ người bạn thiên
nhiên hào phóng và coi đó là sự “giàu sang” mà cuộc sống ẩn dật mang lại:
“Bốn mùa đều hưởng thiên nhiên lộc,
Thong thả ngồi chơi cõi Thuấn Nghiêu” (Bài 81)
Thiên nhiên bốn mùa là của kho vô tận. Người ẩn sĩ
sống hòa mình, chiếm lĩnh thiên nhiên và họ trở nên “giàu sang”, “thong thả”, “đủng đỉnh” mà không cần đua chen, giành giật. Do đó, khi nói đến
cuộc sống ẩn dật, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ cảm hứng ngợi ca, niềm say
mê thích thú. Với ông, cuộc sống an bần lạc đạo cũng có thú vị riêng. Đó là cái
đạm bạc trong sự sang trọng. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng lại đạt được sự giàu
sang trong tâm hồn. Đó là chân giá trị mà nho mong đạt được.
Sống
ung dung, tự tại, hòa vào thiên nhiên, bằng lòng với điều kiện kinh tế tự cung
tự cấp, buông ngoài tai những lời khen chê của thế sự, “ông nhàn” Nguyễn Bỉnh
Khiêm gần đạt tới cảnh giới “vô vi” của triết học Lão - Trang. Tuy nhiên, về
bản chất, tư tưởng “nhàn” của ông vẫn nằm trong khuôn khổ của Nho giáo. Trên
thực tế cuộc sống và trong thơ ca, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn những giây phút
trăn trở “Ưu ái vằng vặc trăng in nước”.
Tâm trạng ưu thời mẫn thế ấy, dù chỉ là thảng qua giữa không gian thơ đậm màu
sắc nhàn tản, ưu tư thì cũng đủ để khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho
không phải là một nhà triết học Lão – Trang, thơ “nhàn” của ông vẫn nằm trong
khuôn khổ phép “xuất – xử”, “hành – tàng” của Nho giáo. Bởi con người tự tại
trong thơ ông “không quay lưng lại với xã hội và con người, bởi nó vẫn sống
trong xã hội, sống trong sự giao tiếp thường ngày với con người. Nó chỉ lánh xa
cái phần danh lợi của xã hội và con người mà thôi” [43].
3.1.2. “Nhàn” trong xu thế đối lập công danh, phú quý
Khẳng định, ngợi ca cuộc sống “nhàn dật”, xem thường công danh phú quý, từ lâu đã trở thành phương diện quan trọng trong mô hình tư duy của nhà nho. Họ xem đó như một phương cách để khẳng định khí tiết thanh cao của người quân tử. Tiếp nối hành trình của thơ ca “nhàn dật”, Nguyễn Bỉnh Khiêm một lần nữa khẳng định sự đối lập đó.
Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chúng tôi thống kê được 16 bài thơ thể hiện sự đối lập giữa “nhàn dật” và công danh, phú quý (phụ lục 7). Điều đó thể hiện rõ ràng nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm về vấn đề lợi danh, phú quý. Đúc kết những trải nghiệm trong cuộc đời ẩn dật, cũng như thời gian ở chốn quan trường, ông nhận thức sâu sắc sự ảo hóa của danh lợi, phú quý. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “phú quý tựa chiêm bao”, công danh phù du như áng mây mỏng manh. Khi nói về công danh, ông đã hơn một lần dùng từ các từ “áng công danh”:
“Thuở áng công danh, nhiều phải lụy,
Trong nơi ẩn dật có cơ mầu”. (Bài 9)
“Lòng vô sự trăng in nước,
Của thảng lai gió thổi hoa” (Bài 31)
Cũng giống như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt “nhàn dật” và công danh phú, quý trong thế đối lập nhau, biểu trưng cho sự đối lập giữa thanh cao và phàm tục. Hai thế giới đối lập ấy được ngăn cách bởi một bức tường vô hình. Đó là khí tiết của nhà nho. Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định, việc chạy theo công danh phú quý sẽ khiến con người trở nên phàm tục, phải “lụy”, phải “thấp nhiều bề”... Còn trong nơi ẩn dật, con người có được “cơ mầu”, có được sự thanh cao.
“Vì danh cho phải danh làm lụy,
Được đạo thì hay đạo có mùi”. (Bài 18)
“Khách ở vườn đào cao mấy trượng,
Người đeo thói tục thấp nhiều bề”. (Bài 61)
Nhận thức sâu sắc sự đối lập công danh, phú quý và cuộc sống “nhàn dật”, học tập cách ứng xử của các bậc tiền nhân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống “nhàn” như một phương thức, một giải pháp đúng đắn để thực hiện vấn đề “minh triết bảo thân”, xa lánh thói tục, đạt đến sự thanh cao của tâm hồn.
“Một am phong nguyệt, tớ vui tớ,
Hai chữ công danh, ngươi mặc ngươi”. (Bài 144)
Tóm lại, trong cuộc hành trình chạy tiếp sức của mình, thơ “nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa đầy đủ các biểu hiện của thơ ca “nhàn dật” trước đó. Trở về với thiên nhiên, ngợi ca cuộc sống an bần lạc đạo, đối lập với công danh là những nội dung không thể thiếu trong thơ ca “nhàn dật”. Vấn đề đặt ra, đây không đơn thuần chỉ là sự tương đồng trong quan niệm về “nhàn dật” giữa hai tác giả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm mà là điểm chung của tất cả những sáng tác thơ ca theo khuynh hướng này, không chỉ ở Việt Nam mà ở cả các nước đồng văn khác. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ cội nguồn văn hóa, xã hội của tư tưởng “nhàn dật”, cũng như bản chất của các hệ tư tưởng đã chi phối nhà nho như đã trình bày ở chương 1 của luận văn. Cùng trong một hệ quy chiếu của tư tưởng Á Đông, sự tương đồng trong nhân sinh quan của các nhà nho là tất yếu. Tìm hiểu, chỉ ra những yếu tố mang tính kế thừa thơ “nhàn” trung đại trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập là cơ sở quan trọng để tìm hiểu những yếu tố vận động của tư tưởng này.
3.2. “Nhàn” – triết lý sống của con người trong thời loạn
3.2.1 Triết lý “vô sự” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chiêm nghiệm cuộc đời bằng nhãn quan của một triết nhân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy tất cả những biến động tang thương, những cảnh núi xương sông máu, những tranh giành, thoán đoạt quyền vị, những rạn nứt, suy đồi của đạo đức xã hội... đều bắt nguồn từ một nguyên nhân. Đó là lòng tư dục, “dạ tư thiên” của con người. Từ đó, ông đề ra triết lý “vô sự” với mong muốn đem lại sự cân bằng, hài hòa, “trung dung” cho con người, coi đó như một phương thuốc cứu vãn xã hội đương thời thoát khỏi những cảnh tranh giành, xây dựng một cuộc thanh bình, ổn định cho nhân dân.
Triết lý “vô sự” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt ra “về bản chất là chung cho cả tam giáo, song xét về bình diện Nho giáo, đó là thái độ ứng xử xuất thế - tàng ẩn của nhà nho. Cách ứng xử văn hóa “vô sự” của Nguyễn Bỉnh Khiêm với mục đích không gây ra điều gì bất lợi, bất cập cho bản thân, cho người khác khá gần gũi với tư tưởng trung thứ của Khổng Tử hơn là với Phật và Lão, bởi “vô sự” đi liền với sự hiểu biết về lẽ kinh quyền” [1, 71]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quân cũng chỉ ra trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có đề cập đến triết lý “vô sự”. Ông cho rằng: “Vô sự nghĩa là không để có sự gì rắc rối” [39, 516].
“Chữ rằng: “nhân dĩ hòa vi quý,
Vô sự thì hơn kẻo phải lo”. (Bài 72)
“Mặc chê dể mặc yêu thương,
Vô sự thì hơn nữa ngọc vàng”. (Bài 90)
Trước bối cảnh xã hội loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra triết lý sống “nhàn”, “vô sự” và xem đó như một lối thoát, một con đường để kiếm tìm hạnh phúc. Ông khẳng định cuộc sống nhàn tản, “vô sự” là một cuộc sống thực sự hạnh phúc, con người đạt đến cõi lòng “vô sự” là những bậc tiên nhân đã diệt hết mọi khổ đau của cuộc đời thế tục.
“Ở thế có khôn thì có khó,
Chữ rằng: vô sự tiểu thần tiên”. (Bài 64)
“Ngày ngày tiêu sái nhàn vô sự,
Tuy chửa là tiên ấy ắt tiên”. (Bài 19)
Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chúng tôi đã thống kê được 37 bài thơ thể hiện cảm xúc vui sướng, hạnh phúc của của con người khi được hòa mình vào thú vui “nhàn dật” (phụ lục 6). Ở những bài thơ đó, ông sử dụng một loạt câu thơ, từ ngữ, hình ảnh, những so sánh để cực tả niềm hạnh phúc, sự mãn nguyện. Qua lăng kính của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cuộc sống “nhàn dật” hiện lên tràn ngập những “hứng ý”, “vui”, “mừng”, “tiêu sái”, “thú”, “đắc thú thanh nhàn”, “vui thú ẩn”, “đủng đỉnh”, “thong thả”, “cười khúc khích”, “hát nghêu ngao”, “được nhàn”, “phúc được về nhàn”...
“Làm chi nghĩ ngợi nhọc đua hơi,
Đắc thú thanh nhàn ấy dưỡng thân.
Đủng đỉnh hôm mai chơi nước trí,
Nghêu ngao ngày tháng dạo non nhân”. (Bài 133)
Khi đạt đến cuộc sống “đắc thú thanh nhàn” màu nhiệm ấy, con người quên hết những sầu lo để trở thành những bậc “tiên vô sự”, “tiểu thần tiên”, “tiên khách”... trong một phong cốt ưu du, thoát tục.
“Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách,
Được thú ta đà có thú ta”. (Bài 31)
Ở một bài thơ chữ Hán khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ngợi ca niềm hạnh phúc của cuộc sống “nhàn dật”.
“Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ,
An nhàn ngã thị địa trung tiên”.
(Cao khiết ai là kẻ sĩ trong thiên hạ,
An nhàn ta là tiên trong cõi đời). (Ngụ hứng, 10)
Tận hưởng niềm vui, sự hứng thú của cuộc sống tự do, tự tại, Nguyễn Bỉnh Khiêm xem “nhàn dật” như một cuộc sống hạnh phúc thực sự, một cuộc sống lý tưởng.
Ngợi ca cuộc sống ẩn dật an nhiên, tự tại là một cảm hứng được thể hiện nổi bật trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng không phải đến Nguyễn Bỉnh Khiêm vấn đề này mới xuất hiện. Cuộc sống “nhàn” là một đề tài xuất hiện từ rất sớm, gắn với lịch sử tầng lớp ẩn sĩ và thơ ca “nhàn dật”. Miêu tả, ngợi ca cuộc sống “nhàn”, “vô sự” trong Bạch Vân quốc ngữ thi là một sự tiếp nối truyền thống. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định, đó là một sự kế thừa và phát triển. Cuộc sống thanh nhàn, “vô sự” trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm là một cuộc sống mà ở đó con người đạt được niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn thực sự. Điều mà các nhà Nho trước đó chưa tìm được.
“Nép mình qua trước chốn lao xao,
Mấy sự bên tai gió thổi phào.
Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích,
Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao”. (Bài 83)
“Đèo núi vỗ tay cười khúc khích,
Rặng thông vắt cẳng hát nghêu ngao”. (Bài 143)
Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong thơ Nguyễn Trãi, cuộc sống “nhàn dật”, ung dung, tự tại cũng được thể hiện khá đậm nét. Tuy nhiên cũng như đã nói ở chương 2, dù Nguyễn Trãi tìm đến thú thanh nhàn và cũng có những phút giây vui thú thực sự, nhưng nhìn một cách tổng quát cái “nhàn” của Nguyễn Trãi là cái “nhàn” bất đắc dĩ. Điều day dứt lớn nhất đối với Nguyễn Trãi là nghĩa “quân thân”, lòng trung hiếu và khát vọng cống hiến. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ngược lại, cũng có những giây phút, ông day dứt, trăn trở về lẽ quân thân nhưng chung cục, niềm say sưa, hứng thú, tận hưởng cuộc sống “nhàn dật” vẫn là phương diện nổi bật hơn cả. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, người ta thấy xuất hiện “không phải là cái nhàn bất đắc dĩ mà là cái nhàn làm người ta toại chí đến cực điểm” [39, 470]. Cái nhàn đã được nâng lên tầm triết lý. Đó chính là sự “đắc đạo trong cái đạo nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Cơ sở lý luận của triết lý “vô sự” mà nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương có nguồn gốc từ tư tưởng triết học cổ phương Đông. Tống Nho cho rằng cái gốc của vũ trụ, vạn vật là “lý” – một thực thể tinh thần. Tổng hợp cái “lý” của vạn vật trong trời đất hình thành “Thái cực” – bản nguyên của thế giới. “Khí” trong quá trình vận động, nếu ngưng đọng, thoái bộ gọi là khí âm, nếu tăng tiến gọi khí dương. Các khí âm dương không cố định mà vận động theo các quy luật “tiêu trưởng”, “phản phúc”, “hóa sinh” kết hợp với “lý” sinh ra vạn vật. Trong đó, tất cả đều do “lý” chi phối. Bên cạnh “lý”, “khí” của vũ trụ thì mỗi sự vật, hiện tượng trong trời đất đều có đủ “lý” và “khí”. Như vậy, theo quan niệm của Tống Nho, sự tồn tại vạn vật trong vũ trụ đều có cái “lý”, “khí” của nó, nó sẽ vận động theo quy luật của tự nhiên và sự chi phối của “thiên mệnh” – “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”.
Xuất thân cửa Khổng sân Trình khi mà Nho giáo đã phát triển đến đỉnh cao ở Việt Nam, lại được đào tạo từ môi trường giáo dục cơ bản, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sâu sắc thế giới quan, nhân sinh quan theo học thuyết Tống Nho, đặc biệt tư tưởng “thiên mệnh”. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi, chúng tôi thống kê được 26/132 bài thơ (19,69%) thể hiện điều này (phụ lục 8). Ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Tống Nho, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng luật trời, “thiên mệnh” là cái “lý” bất biến chi phối cuộc đời, số phận của mỗi con người:
“Chữ rằng phú quý giai thiên mệnh,
Gặp được bao nhiêu hay bấy nhiêu”. (Bài 96)
“Trời sinh, trời ắt đã đành phần,
Tua hãy cho hiền dạ có nhân”. (Bài 80)
Từ nhân sinh quan triết học Tống Nho, ông rút ra một triết lý: dù giàu sang, phú quý, nghèo hèn thì chung cục vẫn không ai tránh được sự “bạc đầu”. Đó là quy luật của tạo hóa:
“Mừng thay tạo hóa công bằng bấy,
Giàu, khổ, sang, nhàn cùng bạc đầu”. (Bài 139)
Như vậy, theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, “thiên mệnh” rất công bằng và bất biến. Khi sinh ra ai cũng có số phận riêng của mình, hãy tuân thủ theo lẽ tự nhiên ấy, không nên can thiệp, hoặc gây điều gì bất cập cho bản thân và người khác.
Không chỉ nhìn nhận cuộc đời theo thuyết “thiên mệnh”, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn thấy được những biến đổi của vạn vật theo vòng tuần hoàn khép kín của quy luật “âm dương tiêu trưởng”. Về lí luận của thuyết âm dương, Lão Tử cho rằng: “Trong vạn vật, không có vật nào là không cõng âm, bồng dương” [17]. Học thuyết âm dương được thể hiện sâu sắc nhất trong Kinh Dịch: Âm dương “bao trùm mọi nguyên lí của vũ trụ, không có vật gì không được tạo thành bởi âm dương, không có vật gì không được chuyển hóa bởi âm dương biến đổi cho nhau” [17]. Theo đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng trong mỗi sự vật, hiện tượng đều có các mặt đối lập nhau, chúng gắn bó mật thiết và luôn chuyển hóa cho nhau. “Âm cực sinh dương, dương cực sinh âm”, cái này nhỏ đi thì cái kia lớn lên và ngược lại, họa – phúc, sang – hèn, thăng – giáng... cứ thế đắp đổi mãi. Đó là luật trời. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của học thuyết âm dương. Chúng tôi thống kê được 14/132 bài thơ (10,6%) trực tiếp thể hiện quy luật “âm dương tiêu trưởng” (phụ lục 10). Trong 14 bài thơ đó, hàng loạt các cặp từ thể hiện các mặt đối lập trong quy luật âm dương: Giàu – khó, vinh – nhục, thua – được, suy – thịnh, lành – dữ, khôn – dại, bĩ – thái, cạn – sâu... được sử dụng với mật độ cao (28 cặp đối lập). Điều này đã thể hiện một thế giới quan, một nhân sinh quan giàu tính triết lí trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
“Giàu chỉnh chện, khó lai dai,
Vần chuyến lưu thông hóa của ai.
Vũng nọ ghê khi làm bãi cát,
Doi kia có thủa lút hòn thai.
Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng,
Dại dột nào hay tiểu có đài.
Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi,
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”. (Bài 3)
Ảnh hưởng sâu sắc quy luật “âm dương tiêu trưởng”, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy mọi sự vật trên cõi đời này, từ những sự vật hiện tượng nhỏ nhất trong đời sống, số phận con người, đến sự thay đổi của xã hội, thời đại đều vần chuyển lưu thông không ngừng giữa các mặt đối lập. Từ đó ông chỉ rõ cho mọi người: trong phú quý, trong “cơ doanh mãn” tiềm ẩn những mối lụy, sự nghèo hèn; trong nghèo hèn có sang trọng; trong họa có phúc...
“Chưng trong họa phúc ít người hay,
Suy thịnh hằng lề rắp đổi thay.
Hàn Tín nên công thì cả phúc,
Tái ông thất mã há chau mày”. (Bài 57)
Vận dụng những hiểu biết lý học Tống Nho vào chiêm nghiệm cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang cho thơ ca của mình chất triết lý sâu sắc. Nhưng, cũng cần phải khẳng định, không phải chỉ riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng của những tư tưởng này. Những lý thuyết huyền bí về “thiên mệnh”, về âm dương đã chi phối tư tưởng của hầu hết các tầng lớp trí thức xuất thân cửa Khổng sân Trình. Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi cũng đã nói đến vấn đề “thiên mệnh”, quy luật tiêu trưởng. Tuy nhiên, ở Nguyễn Trãi những tư tưởng này xuất hiện chưa đủ để mang đến chất triết lý cho thơ. Trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thống kê được 14/225 bài thơ (6,22%) thể hiện tư tưởng “thiên mệnh” (phụ lục 9), 5/225 bài thơ (2,2%) thể hiện quy luật âm dương tiêu trưởng (phụ lục 11). Như vậy, so với thơ Nôm Nguyễn Trãi thì trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, chất triết lý được thể hiện sâu sắc hơn.
Xuất phát từ việc chiêm nghiệm cuộc đời theo quan niệm của triết học Tống Nho, đặc biệt học thuyết “âm dương tiêu trưởng” trong Kinh Dịch, đối chiếu vào thực tế xã hội đổ nát, tang thương đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy số phận con người mong manh ảo hóa, công danh phú quý tựa giấc chiêm bao. Từ đó, ông chủ trương lối sống “nhàn dật” với hạt nhân là triết lý “vô sự” – một triết lý tu tâm dưỡng tính, hướng con người đạt đến sự trong thoáng của tâm hồn, diệt trừ tận gốc dục vọng. Từ đó định hướng hành vi của con người trong cuộc sống, tiến tới xây dựng một xã hội ổn định theo mô hình Nho giáo “Thái bình thiên tử, thái bình dân”.
3.2.2 “Nhàn”, “vô sự” - chuẩn
tắc đạo đức trong thời loạn
Trong bức tranh toàn cảnh lịch
sử Việt Nam, thế kỉ XVI được biết đến là thế kỉ của chiến tranh, loạn lạc, đói
khổ triền miên. Các ông vua Lê mạt triều ăn chơi sa đọa. Nhân dân cơ cực lầm
than. Giặc giã nổi lên khắp nơi, thế lực thống trị chia bè, kết đảng, tranh
giành quyền lực. Nhà Mạc thay thế nhà Lê (1527). Sau những tiến bộ ban đầu
trong việc ổn định xã hội, vua tôi nhà Mạc nhanh chóng trượt vào lối mòn của
các ông vua Lê mạt triều, chỉ thích ăn chơi, không quan tâm đến đời sống nhân
dân. Xã hội rơi vào vực thẳm của loạn lạc. Khói lửa chiến tranh giữa các tập
đoàn phong kiến Lê – Mạc, Lê – Trịnh – Nguyễn kéo dài hơn một thế kỉ (1533 –
1672) đã nhấn chìm nhân dân vào vũng bùn lầy của đói khổ, tang tóc, bi thương,
kéo đạo đức xã hội xuống hố sâu của sự suy đồi, tha hóa.
Trước thực trạng suy thoái của nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động cáo
quan về sống cuộc đời “nhàn dật” an nhiên, tự tại. Nhưng cũng giống như Nguyễn
Trãi và hầu hết các nho sĩ Việt, trong trái tim Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn trào dâng
một “Tấm lòng ưu ái đến già chưa nguôi”.
Sống trong thế kỉ của suy thoái, loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm không mang nỗi
“đau đời” về giãi bày, chia sẻ với trúc, thông, viên, hạc... nơi thâm sơn cùng
cốc. Ông ở ẩn giữa cõi người, giữa chốn dân cư đông đúc trong tình cảm chan
hòa, gắn bó với nhân dân. “Mùa thu năm
Nhâm dần, ta bỏ quan chức về nghỉ ở quê nhà, mời các cụ già đi dạo chơi ở bến
giữa (Trung Tân). Ngắm ra phía đông là biển (Đông), ngó ra phía tây là kênh
(Thày), phía nam xa xa nhìn ngòi Liêm Khê, thấy các làng Trung Am, Bích Động
đây đó tiếp giáp nhau, phía bắc cúi nhìn sông Tuyết, chợ Hàn, đò Nhật phải trái
vây bọc. Một con đường lớn, chạy ngang ở giữa, dấu chân ngựa, vết bánh xe,
không biết là mấy nghìn dặm nữa” [18, 333]. Trong mối quan hệ mật thiết với
nhân dân, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ “đau đời” mà ông còn mong muốn tìm được
phương thuốc để cứu vớt xã hội. Trên thực tế cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có
những nỗ lực không ngừng để thực hiện khát vọng “Thái bình thiên tử, thái bình dân”. Về mặt chính trị, lợi dụng sự
trọng vọng của các thế lực phong kiến và bằng trí tuệ uyên bác, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã cố gắng tạo thế “chân vạc” giữa các tập đoàn phong kiến, kéo chúng ra
xa nhau để tránh cho nhân dân những cuộc huyết chiến thảm khốc. Với tập đoàn họ
Nguyễn, ông khuyên “Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân”, với họ Trịnh, ông
chỉ ra “Ở chùa thờ Bụt thì ăn oản”, còn với nhà Mạc, ông hướng họ lên Cao Bằng
“Cao Bằng tuy tiểu, khả duyên sổ thế”. Về mặt văn hóa, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho xây am Bạch
Vân không phải để lánh đời, “Độc thiện kì thân” mà làm nơi dạy học, nơi truyền
bá đạo đức. Theo nhà nghiên cứu Phạm Luận, “Am Bạch Vân là một trường học, một
thi xã, cũng là một trung tâm truyền phát tư tưởng, tư tưởng nhàn” [39, 361].
Điều đó cho thấy khát vọng, cũng như cố gắng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong việc
ổn định thời cuộc bằng con đường cải tạo đạo đức xã hội. Một trong những chuẩn
tắc đạo đức mà ông muốn phổ biến rộng rãi đó là tư tưởng “nhàn”, triết lý “vô
sự”. Điều này được thể hiện rõ nét trong toàn bộ sáng tác của ông nói chung và
thơ Nôm nói riêng.
Không chỉ phát
triển tưởng “nhàn dật” trở thành một triết lý sống, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có
khát vọng phổ biến lý thuyết ấy cho quần chúng nhân dân để triết lý “nhàn dật”
đi vào đời sống xã hội như một chuẩn tắc đạo đức định hướng hành động cho con
người trong thời đại loạn lạc. “Chữ nhàn vốn không thuộc phạm trù đạo đức,
nhưng trong thơ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm như đã trở thành một chuẩn tắc đạo
đức. Nó là một chuẩn tắc cần thiết đề ra trong thời nguy” [39, 362].
Bằng những chiêm
nghiệm cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thấy rõ ràng những rạn nứt, đổ vỡ của đạo
đức trong lòng xã hội đương thời. Tất cả những giường mối, chuẩn tắc đạo đức mà
Nho giáo đề ra để giữ gìn kỉ cương, luân thường, đạo lý dường như không còn ý
nghĩa trước một xã hội đảo điên chạy theo lợi danh, tiền bạc:
“Còn
tiền còn bạc còn đệ tử,
Hết cơm hết gạo hết ông tôi”. (Bài
71)
“Đời
này nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có
của thì hơn hết mọi lời.
...
Người
của lấy cân ta nhắc thử,
Mới hay rằng của nặng hơn người”. (Bài 74)
Trong guồng máy
ghê gớm của tiền tài, danh vọng, đạo đức xuống dốc, nhân nghĩa bị khinh rẻ,
đồng tiền lên ngôi trở thành thước đo của mọi mối quan hệ xã hội. Con người trở
nên bất nhân, tham lam, dối trá.
“Người
hàng thịt nguýt người hàng cá,
Đứa
bán bò gièm đứa bán trâu.
Bé
vú thở than người cả vú,
Ít
râu ánh ỏi kẻ nhiều râu”. (Bài
112)
“Lận
thế treo dê đem bán chó,
Lập
danh cưỡi hạc lại đeo tiền”. (Bài
124)
Tuy nhiên, với tầm nhìn của một triết nhân,
ảnh hưởng nhân sinh quan triết học Tống Nho, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn đặt niềm tin
vào tính “thiện” vốn có của con người. Triết học Tống Nho quan niệm: Con người
có hai tính. “Tính bản thiện” - tính khi sinh ra con người đã có, do “lý” chi
phối có bản chất là thiện và “tính bẩm thụ” do “khí chất’ bổ sung. “Khí chất”
trong vũ trụ dày, mỏng, trong, đục khác nhau dẫn đến con người có thể trở thành
ác hoặc thiện. Từ đó, Tống Nho cho rằng con người có thể cải tạo khí chất để
trở về “thiên tính” – tính thiện bằng cách giữ lòng nhân nghĩa, tự nhiên tâm
hòa. Xuất phát từ quan điểm đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng cho rằng: “Người ta tính vốn thiện nhưng tự ràng buộc ở
bẩm khí bị che lấp vì vật dục, có kẻ không giữa được tính thiện như thuở mới đầu
sinh ra, trở nên kiêu sa, biển lận, gian tà, thiên lệch không có điều gì không
làm” [18, 332]. Vậy nên, để khôi phục tính thiện, con người cần ngăn chặn,
tiêu diệt lòng tư dục – thứ đã làm vẩn đục tính thiện ban đầu. Từ đó, Nguyễn Bỉnh
Khiêm chủ trương lối sống “nhàn” như một chuẩn tắc, bài học đạo đức để diệt
lòng tư diệt dục.
Bảng 3.1: Thống kê những bài thơ thể hiện
bài học đạo đức trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập
stt
|
Bài học
|
Số lần
|
Tên bài thơ
|
1
|
Tri túc, an phận
|
18
|
3; 4; 10; 12; 13; 28; 39;
40; 84; 85; 92; 96; 102; 109; 112; 133; 137; 144.
|
2
|
Xem nhẹ công danh, phú quý
|
20
|
1; 8; 9; 15; 16; 17; 18 20;
22; 31; 32; 40; 41; 61; 62; 64; 70; 73; 142; 144.
|
3
|
Dĩ hòa, trung dung
|
13
|
15; 26; 59; 66; 72; 76; 80,
84; 94; 98; 104; 106; 112.
|
Bài học đạo đức
thứ nhất, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao lối sống tri túc, an phận. Ảnh hưởng tư
tưởng Tống Nho, đặc biệt học thuyết âm dương trong Kinh Dịch, ông cho rằng mọi
sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, trong cuộc đời con người đều được định sẵn bởi
“thiên mệnh”, họa – phúc, sang – hèn... luôn đáp
đổi cho nhau. Do vậy, con người hãy sống thuận theo lẽ tự nhiên, không nên ganh
đua tranh giành. Yên phận là “vui”,
là “hơn hết mọi điều”.
“Giàu
ba bữa, khó hai niêu,
Yên phận thì hơn hết mọi điều’ (Bài 3)
“Thảng
mảng đà qua, ngày đã rồi,
Hay yên thửa phận mới nên vui”. (Bài 10)
Yên
phận mà thôi chớ chớ cầu,
Gặp sao hay vậy có làm sao” (Bài
137)
Lối sống tri túc, yên phận mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương, về
mặt lý thuyết là hết sức tiêu cực bởi nó thủ tiêu chí tiến thủ của con người,
ảnh hưởng đến sự phát triển của cuộc sống, cũng như toàn xã hội. Tuy nhiên, ứng
dụng vào bối cảnh lịch sử loạn lạc đương thời với đầy rẫy những sự tranh giành,
chiến tranh, đói khổ... thì lối sống tri túc sẽ hạn chế được một phần nào đó
những cảnh tang thương ấy. Bởi sống tri túc, an phận sẽ không có tranh giành,
không có chiến tranh, cướp bóc, cuộc sống sẽ trở về cái nếp thanh bình vốn có
của nó.
“Buồn về, biếng thấy áng đao binh,
Yên phận thì lành, ở một
mình”. (Bài 13)
Bài học đạo đức thứ hai, Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn đề cao lối sống xem nhẹ
công danh, phú quý. Xuất phát từ những chiêm nghiệm cuộc đời, ông nhận thấy
tiền bạc, danh lợi là những thứ “bả” vô cùng nguy hiểm có thể khiến đảo lộn mọi
lẽ cương thường, suy đồi đạo đức. Trong vòng bủa vây của danh lợi, con người
sống một cách vô đạo.
“Cơm áo bỗng xui người hóa
quý,
Oản
xôi dễ khiến bụt nên ma” (Bài
93)
“Đạo nọ, nghĩa này trăm tiếng
bướm,
Nghe
thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”. (Bài
5)
Kết hợp với những ảnh hưởng từ những triết lý trong Kinh Dịch, Nguyễn
Bỉnh Khiêm nhận thức công danh phú quý chỉ là những thứ phù du, ảo hóa như giấc
chiêm bao mà thôi: “Nhìn xem phú quý tựa
chiêm bao”, ông cũng chỉ rõ trong phú quý có tiềm ẩn những mối lo, mối lụy
bởi theo luật “âm dương tiêu trưởng”: “Suy
thịnh hằng lề đắp đổi thay”. Từ đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên con người hãy
xem nhẹ công danh, phú quý, coi “nhàn dật” và cõi lòng “vô sự” là niềm vui, là
đáng trân trọng.
“Thuở áng công danh, nhiều phải lụy,
Trong nơi ẩn dật có cơ mầu.
Thuở nơi doanh mãn là nơi tổn,
Hãy ngẫm cho hay mới kẻo âu”. (Bài 9)
“Vì danh cho phải danh làm lụy,
Được đạo thì hay đạo có mùi”. (Bài 18)
Lối sống xem nhẹ công danh, phú quý,
ngợi ca cuộc sống “nhàn dật”, từ lâu đã là một yêu cầu, một chuẩn tắc ứng xử
của nhà nho để bảo toàn phẩm tiết, để thực hiện lý tưởng “độc thiện kì thân”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là người đầu tiên nêu vấn đề này. Tuy nhiên, phải
đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, với mong ước chữa căn bệnh tham công danh cố hữu trong
xã hội mà vấn đề xem nhẹ công danh, phú quý được nâng lên như một chuẩn tắc đạo
đức cho toàn xã hội chứ không còn là độc quyền của tầng lớp nhà nho nữa. Trong
một xã hội chạy miết theo danh lợi và đồng tiền thời bấy giờ, bài học đạo đức
xem nhẹ công danh phú quý của Nguyễn Bỉnh Khiêm vang lên như một hồi chuông
cảnh tỉnh giấc mơ phú quý của những ai đang bán hết nhân nghĩa, đạo đức để mua
danh lợi phù hoa. Xa rời những đua tranh về lợi danh, phú quý, xa rời tư dục,
vị kỷ, con người sẽ trở về với tính thiện, với những chuẩn mực đạo đức, cương
thường, xã hội sẽ trở về nề nếp, ổn định hơn. Tất yếu, mọi đau khổ của con
người sẽ tan biến.
Bài học đạo đức thứ ba, Nguyễn Bỉnh
Khiêm chủ trương lối sống “trung dung”, “dĩ hòa vi quý”. Sống trong thế kỷ mà
chiến tranh cát cứ, chứng kiến những cảnh huynh đệ tương tàn diễn ra liên miên,
nhân dân sống trong cảnh đói khổ lầm than, lời kêu gọi giữ đạo “trung dung” của
Nguyễn Bỉnh Khiêm vang lên một cách thống thiết:
“Giữ giường mối, hay giữ mối giường,
Làm người hãy giữ đạo thường
thường”. (Bài 76)
“Trung dung” là
tư tưởng cơ bản, là thế giới quan và phương pháp ứng xử xã hội của Nho giáo mà
Khổng Tử đặt ra. Nho giáo quan niệm: “Hỉ,
nộ, ai lạc chi vị phát, vị chi trung; phát nhi giai trúng tiết, vị chi hòa.
Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã; hòa dã giả, thiên hạ chị đại đạo dã. Trí
trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”. (Mừng, giận, buồn, vui khi
chưa biểu hiện ra gọi là trung; biểu hiện ra mà phù hợp với quy củ, mức độ thì
gọi là hòa. Trung là gốc lớn trong thiên hạ, hòa là đạo lí thông đạt trong
thiên hạ. Gắng sức đạt đến trung hòa thì trời đất có được vị trí thỏa đáng,
muôn vật được phát huy sinh trưởng) (Trung
dung, chương 1). Đến thời kì Tống Nho phát triển, “trung dung” trở thành
một trong Tứ thư – Kinh điển của Nho
giáo. Nho giáo khẳng định “trung dung” là “thiên hạ chi đại bản”, là chuẩn tắc
đạo đức tối cao mà người quân tử cần có “Quân
tử trung dung, tiểu nhân phản trung dung” (Trung dung, chương 2). Ứng dụng những hiểu biết kinh điển Nho gia,
Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng thơ văn để phổ biến tư tưởng “trung dung” và mong muốn
tư tưởng này trở thành một chuẩn tắc đạo đức trong xã hội. Ông xem đó như một
phương cách cần thiết để hạn chế những cuộc chạy đua quyền lực của giai cấp
thống trị, hạn chế những sự giành giật trong đời sống xã hội. Ông mong muốn con
người hãy sống hòa hiếu, yêu thương lẫn nhau, đừng tranh giành hơn thua.
“Người dữ thì ta
miễn có lành,
Làm
chi đo dắn nhọc đua tranh”. (Bài
26)
“Ở thế đừng tranh đấng trượng phu,
Làm chi cho có sự đôi co.
...
Chữ rằng: “nhân dĩ hòa vi quý,
Vô sự thì hơn kẻo phải lo”. (Bài 72)
Tư tưởng “trung
dung” của Nho giáo về bản chất là tư tưởng định hướng con người giữ cân bằng
giữa các thái cực trong trạng thái suy nghĩ, cảm xúc, cũng như trong cuộc sống,
xã hội. Cùng với tư tưởng “trung dung”, Kinh Dịch cũng đề ra vấn đề cân bằng âm
– dương: “cô dương bất sinh, cô âm bất trường”, “vật cùng tắc biến, vật cực tắc
phản”. Vì vậy, phải luôn giữ cân bằng âm dương để cho vạn vật phát triển. Lối
sống “thời trung” ấy của triết học cổ phương Đông đã ảnh hưởng đến hầu hết tầng
lớp nho sĩ Việt. Nhận thức sâu sắc những lẽ huyền vi trong tư tưởng Nho giáo và
Kinh Dịch, Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên nhủ con người hãy giữ cho cuộc sống hài
hòa, “trung dung”.
“Kẻ khó nhờ ơn có kẻ giàu,
Làm chi đua cãi, mất lòng
nhau.
Người hơn, ta thiệt thì dầu
vậy,
Đấy thẳng, đây trùng chẳng
đứt đâu.
Dại nọ chưa đo âu đã đắn,
Khôn thì thốt trước lại lo
sau”. (Bài 59)
Như vậy, để cứu vãn đạo đức xã hội đang trên đà suy đồi nghiêm trọng,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra những bài học đạo đức để diệt lòng tư dục – nguồn gốc
loạn lạc trong xã hội, đem lại một cuộc sống cân bằng, hòa hiếu. Có thể nói,
các bài học đạo đức tri túc, an phận, xem nhẹ công danh, phú quý, sống “trung
dung”, “dĩ hòa vi quý” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương đều nằm trong bản chất
của chữ “nhàn”. Bởi như chỉ rõ ở các phần trên: “Nhàn” là vui thú với cuộc sống
điền viên, là đối lập với công danh, phú quý, với những đua chen, giành giật.
Do đó, với Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng “nhàn dật” đã được nâng lên thành một
triết lý sống. Hơn nữa, “nhàn” không chỉ là một lý thuyết giản đơn mà Nguyễn
Bỉnh Khiêm còn mong muốn ứng dụng vào thực xã hội đương thời như một chuẩn tắc
định hướng hành vi của con người.
Như vậy, đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư
tưởng “nhàn dật” đã được nâng lên tầm vóc một triết lý sống. Trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi, tư tưởng này mới chỉ mang tính vi mô, xuất phát từ những bi kịch
cuộc đời cá nhân. “Nhàn dật” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là một tư tưởng, một lối
sống mang tính hướng nội và đặt ra như một quan niệm sống, một nhu cầu giải tỏa
những ẩn ức cá nhân. Đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng “nhàn dật” đã mang
tầm vĩ mô, tính xã hội cao. Tư tưởng “nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm được hình
thành từ một thế giới quan, nhân sinh quan có hệ thống – triết học Tống Nho mà
nòng cốt là Kinh Dịch, kết hợp với những trải nghiệm từ thực tế loạn lạc, tang
thương của xã hội Việt Nam thế kỉ XVI. Như vậy, tư tưởng “nhàn dật” trong thơ
Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một triết lý sống có cơ sở lý luận và cơ sở thực
tiễn đầy đủ. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Nhàn dật” “không còn là cái ngẫu nhiên của
một số ít người mà trở thành cái chung của cả một đẳng cấp, có ý nghĩa xã hội”
[39, 137]. Trong thời đại loạn li, triết lý “nhàn dật” với hạt nhân “vô sự”
được đặt ra như một giải pháp, một hướng đi của con người trong thời loạn để
hóa giải nguồn gốc của chiến tranh, tư dục, xây dựng một cuộc sống cân bằng,
“trung dung”, “dĩ hòa vi quí”.
Tóm lại, có thể
khẳng định, tư tưởng “nhàn dật” đã có sự vận động, phát triển từ thơ Nôm Nguyễn
Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ việc đặt ra như một quan niệm sống của
con người cá nhân ở Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng này đã phát
triển thành một triết lý sống, một chuẩn tắc hành xử của con người trong thời
loạn. Sự vận động này có thể được giải thích bằng nhiều nguyên nhân. Nhưng dưới
cái nhìn xã hội học, chúng tôi cho rằng chính sự thay đổi những đặc điểm xã hội của
hai thời đại đã dẫn đến sự vận động trong tư tưởng của hai đại thi hào. Như đã
biết, Nguyễn Trãi sống vào giai đoạn cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV. Đây là
giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam có những biến động lớn lao, phức tạp. Bức
tranh toàn cảnh của thời kỳ ấy có tranh giành thoán đoạt quyền bính, có nạn ngoại
xâm, có chiến tranh đổ máu, nhưng sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, cùng
với sự ra đời của một triều đại mới - nhà Lê sơ, xã hội dần đi vào quỹ đạo của
sự ổn định và phát triển, Nho giáo bắt đầu phát triển mạnh mẽ và đạt đến cực
thịnh đưới thời Lê Thánh Tông (1442 - 1497). Vì vậy, ẩn dật chưa trở thành một
hiện tượng phổ biến. Dưới con mắt của một nhà nho ưu thời mẫn thế như Nguyễn
Trãi, ông vẫn nhìn thấy tính tích cực ở thời đại ấy. Từ đó ông đặt niềm tin vào
một xã hội “Dân giàu đủ khắp đòi phương”
và vẫn không nguôi khát vọng cống hiến “Bui
một tấc lòng ưu ái cũ; Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông”. Việc Nguyễn
Trãi cáo quan, tìm về sống cuộc đời ẩn dật chỉ là một hướng đi, một lựa chọn
bất đắc dĩ để giải thoát những bi kịch cá nhân mà thôi. Bước sang thế kỷ XVI,
xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng, bế tắc trầm trọng, những cuộc
chiến tranh cát cứ huynh đệ tương tàn diễn ra liên miên, đời sống nhân dân cực
khổ lầm than, đạo đức phong kiến suy đồi... Toàn xã hội rơi vào bi kịch khủng
khiếp. Trong thời đại đen tối và chưa có lối thoát ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy
nguồn gốc dẫn đến xã hội loạn lạc ấy xuất phát từ lòng tư dục của con người: “Ở triều đình thì giành nhau cái danh, ở chợ
búa thì giành nhau cái lợi. Khoe là sang thì xe mát quán ấm, khoe là giàu thì
nhà múa lầu hát, Thấy người chết đói dọc đường không dám bỏ một đồng tiền ra
cứu giúp...” [18, 332 - 333]. Từ đó, ông chủ trương lối sống “nhàn” như một
phương thuốc để cứu vãn toàn xã hội đương thời. Mang tính phổ quát, tính xã hội
cao, lại xuất phát từ thế giới quan có hệ thống của triết học Tống Nho, tư tưởng
“nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được phát triển trở thành triết lý sống
trong thời loạn.
Triết lý “nhàn dật” của Nguyễn Khiêm là một thành tựu
trong nỗ lực tìm đường đi cho xã hội. Trong thời đại loạn lạc, tư tưởng này đã thể
hiện được khát vọng xây dựng một xã hội có trật tự theo mô hình Nho giáo. Nếu
áp dụng được, tư tưởng “nhàn dật” cũng sẽ góp phần hạn chế được những cảnh
tranh đua, chém giết trong xã hội đương thời. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
khách quan, khoa học, cần phải khẳng định: khi tư tưởng “nhàn dật” phát triển
trở thành một triết lý sống thì cũng là lúc nó bộc lộ tính không tưởng. Bởi áp
dụng tư tưởng “nhàn dật” trở thành triết lý sống, chuẩn tắc đạo đức cho toàn xã
hội, đặc biệt xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI là một điều không thể thực
hiện được, chính Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã nhận thức được điều này:
“Dù ai ngăn được lòng tư ấy,
Ta
ắt nhường cho đấng thánh hiền”. (Bài
124)
Tuy
nhiên, cũng cần phải khẳng định cái đáng trân trọng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở nỗ
lực cứu vãn xã hội đương thời và tấm lòng ưu ái mà ông dành cho nhân quần, cho
dân tộc.
* Tiểu kết
Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, tư tưởng “nhàn
dật” được Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khá đậm nét và trở thành một trong những
nội dung chính. Tư tưởng đó là sự tiếp nối, phát triển tư tưởng “nhàn dật”
trong thơ ca trung đại.
Do cùng chung một
mẫu gốc văn hóa, nền tảng tư tưởng nên thơ ca Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang những
dấu ấn đậm nét của thơ “nhàn” trung đại ở tất cả các biểu hiện của nó. Tiếp thu
truyền thống trở về sống giữa thiên nhiên, tìm kiếm thú vui trong cuộc sống ẩn
dật, từ bỏ công danh, phú quý, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện một phong thái ung
dung, nhàn tản đến cực điểm, một phong thái “ông nhàn” hiếm có suốt chiều dài mười thế kỉ văn học trung đại Việt
Nam.
Kế thừa truyền
thống tư tưởng “nhàn dật” trong văn học trung đại, kết hợp với sự am hiểu triết
học Tống Nho, đặc biệt Kinh Dịch và những chiêm nghiệm thời thế, tư tưởng “nhàn
dật” ở Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có sự vận động, phát triển. Từ quan niệm sống của
một vài cá nhân, của tầng lớp Nho sĩ, tư tưởng “nhàn dật” đã trở thành triết lý
sống của thời đại dựa trên một thế giới quan có hệ thống. Không chỉ vậy, Nguyễn
Bỉnh Khiêm còn mong muốn phổ cập triết lý “nhàn dật” trở thành một chuẩn tắc
đạo đức định hướng hành vi của con người trong xã hội loạn lạc.
Triết lý “nhàn
dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm với hạt nhân “vô sự” chưa phải là giải pháp tối ưu
để định hướng cho xã hội phát triển và đó cũng không phải là lối thoát của xã
hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI. Tuy nhiên, triết lý ấy đã thể hiện được nỗ
lực cứu vãn xã hội của tầng lớp trí thức đương thời. Đó là điều đáng trân
trọng.
KẾT LUẬN
1. Tư tưởng “nhàn dật” là một phương
thức ứng xử trước hiện thực xã hội biến động, suy đồi, một thứ “minh triết bảo
thân” của tầng lớp nho sĩ. Tư tưởng này có gốc rễ từ trong bản chất của các hệ
tư tưởng Nho – Đạo – Phật, kết hợp với những đặc điểm xã hội, thời đại, và cuộc
đời của mỗi tác giả tạo thành các sắc diện khác nhau.
Do cùng chung
một nền tảng tư tưởng, cùng nằm trong từ trường chi phối của văn hóa Á Đông, “nhàn
dật” đã trở thành một phương diện quan trọng trong tư tưởng cũng như sáng tác
của các nho sĩ Việt. Sự xuất hiện của tầng lớp ẩn sĩ và thơ điền viên Trung Hoa
đã ảnh hưởng không nhỏ đến thơ “nhàn” trung đại Việt Nam. Tuy nhiên, chữ “nhàn”
trong văn học trung đại Việt Nam không phải là sự sao chép nguyên bản chữ
“nhàn” trong thơ điền viên Trung Hoa. Các nho sĩ ẩn dật Việt dù đã tìm về cuộc
sống “nhàn dật” nhưng dường như trong thâm tâm họ vẫn còn canh cánh một nỗi
niềm ưu ái dành cho đất nước.
2. Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm
là hai nhà văn hóa, tư tưởng lớn, tiêu biểu cho hai giai đoạn kế tiếp trong
lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam. Là hai trí thức theo mô hình Nho giáo,
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm “xuất – xử”,
“hành – tàng” và tư tưởng “nhàn dật”. Nhìn một cách tổng quát, có thể khẳng
định, tư tưởng “nhàn dật” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều có
những yếu tố kế thừa tư tưởng “nhàn dật” của các nhà nho ẩn dật trước đó. Sự kế
thừa thể hiện ở việc Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều lựa chọn thiên nhiên,
cuộc sống điền viên dân dã làm môi trường sống lí tưởng, ca tụng thú thanh
nhàn, đối lập với cuộc sống danh lợi, phú quý. Những nét tương đồng đó không đơn thuần chỉ là sự gặp gỡ trong tư tưởng
của hai tác giả mà đó là sự kế tiếp những biểu hiện trong truyền thống tư tưởng
“nhàn dật” đã có từ nhiều thế kỉ trước. Tuy nhiên, do có sự chi phối bởi các
tiền đề xã hội, thời đại và các yếu tố cá nhân khác nhau nên tư tưởng “nhàn dật”
từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có sự vận động theo
chiều hướng từ vấn đề quan niệm sống của con người cá nhân trong thơ Nguyễn
Trãi đến vấn đề triết lí sống của thời đại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ở Quốc âm thi tập, tư tưởng “nhàn dật” mới
chỉ dừng lại ở quan niệm sống của con người cá nhân Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi
hết mực ca tụng cuộc sống “nhàn dật” nhưng trong thâm tâm ông, khát vọng cống
hiến vẫn là mục đích lớn nhất. Điều này được lý giải từ mối quan hệ máu thịt
của Nguyễn Trãi với nhà Lê. Khát vọng hành đạo, nhập thế nhưng do những bi kịch
cá nhân liên tiếp gặp phải khi ở chốn quan trường nên ông tìm đến cuộc sống “nhàn”
như một sự lựa chọn bất đắc dĩ, một giải pháp an ủi trái tim cô đơn. Như vậy, tư
tưởng “nhàn dật” trong Quốc âm thi tập
là một nội dung mang tính cá nhân. Một quan niệm sống được Nguyễn Trãi đúc rút
từ chính cuộc đời đắng cay, bi kịch của mình. Tư tưởng “nhàn dật” được đặt ra
như một giải pháp, một hướng đi của Nguyễn Trãi để cân bằng cuộc sống của chính
mình.
Đến Bạch Vân quốc ngữ thi tập, tư tưởng “nhàn dật” được Nguyễn Bỉnh
Khiêm nâng lên thành triết lí sống trong thời đại loạn lạc. Xuất phát từ cơ sở
lí luận trong triết học Tống Nho kết hợp với những chiêm nghiệm từ thực tiễn xã
hội phong kiến Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy lòng
tư dục là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình cảnh loạn lạc. Từ đó ông chủ trương
triết lý sống “nhàn” với hạt nhân là triết lí “vô sự” với mong muốn đem lại sự
sự cân bằng, hài hòa cho con người, xây dựng một xã hội ổn định. Không chỉ vậy,
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có khát vọng đưa triết lí đó vào đời sống thực tiễn của
xã hội như một chuẩn tắc đạo đức định hướng hành vi cho con người trong xã hội.
Có thể nói, việc nâng tư tưởng “nhàn dật” thành một triết lí sống, một chuẩn
tắc đạo đức là một nỗ lực trong việc tìm hướng đi để giải cứu xã hội đương thời
của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trên thực tế, triết lí đó là không tưởng. Cái đáng trân
trọng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là nỗ lực và tấm lòng ưu ái ông đã dành cho nhân quần,
cho dân tộc.
3. Sự vận động tư tưởng “nhàn dật”
từ thơ Nôm Nguyễn Trãi thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể được xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên theo chúng tôi, nguồn gốc chủ yếu của sự vận
động ấy là do những biến thiên lớn lao của bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam giữa
hai thế kỉ XV, XVI. Đầu thế kỉ XV, lịch sử dân tộc có nhiều biến động khá phức
tạp. Tuy nhiên, với sự ra đời của triều đại mới - nhà Lê, xã hội dần đi vào quỹ đạo của sự ổn
định và phát triển. Với nhãn quan của một thiên tài, Nguyễn Trãi tất yếu nhìn
thấy tính tích cực của thời đại bấy giờ. Vì vậy, trái tim ông vẫn luôn trào
dâng khát vọng cống hiến. Việc Nguyễn Trãi tìm đến cuộc sống “nhàn dật” là xuất
phát từ bi kịch của cuộc đời ông. Bước sang thế kỉ XVI, xã hội rơi vào tình
cảnh bi thương, loạn lạc. Bi kịch lúc này không còn là của một vài cá nhân mà
là của toàn xã hội. Chứng kiến, chiêm nghiệm cuộc đời, kết hợp với sự am hiểu
thuyết ‘thiên mệnh”, quy luật “âm dương tiêu trưởng” trong triết học Tống Nho,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nâng tư tưởng “nhàn” trở thành một triết lý sống, một
chuẩn mực đạo đức định hướng hành vi của con người trong thời loạn với mong ước
cứu vãn toàn xã hội.
4. Tư tưởng “nhàn dật” là một hiện
thực trong bức tranh tư tưởng của tầng lớp nho sĩ, đồng thời cũng là một phương
diện nội dung khá nổi bật trong các sáng tác văn học trung đại Việt Nam. Tư
tưởng này không chỉ thể hiện ở Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm mà còn tiếp tục
ăn sâu vào tư tưởng của các nhà nho giai đoạn cuối thế kỉ XIX như Nguyễn Công
Trứ, Nguyễn Khuyến. Nếu có điều kiện, chúng tôi mong muốn sẽ tái hiện một cách
hoàn chỉnh bức tranh tư tưởng “nhàn dật” với sự vận động, phát triển, biến đổi,
suy thoái trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bích (2011), Vấn đề nhận thức Tống Nho và sự ảnh hưởng
của nó đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quý Đôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
2. Phan Văn Các (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Nguyễn Huệ Chi (2011), Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc, www.tapchisonghuong.com.vn,
ngày 1/12/2011.
4. Minh Chi, Bàn về chữ nhàn trong thơ văn của Nguyễn
Bỉnh Khiêm, http://www.buddhismtoday.com, ngày 1/7/2000.
5. Nguyễn Bá Cường, Quan niệm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh
Khiêm về tính người, http://www.user.hnue.edu.vn.
6. Võ Xuân Đàm (1996), Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch
sử Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
7.
G. Pospelov (chủ biên), (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập I, (Trần
Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Trọng Nghĩa dịch), Nxb Giáo dục, Hà nội.
8.
Đỗ Thị Hà Giang (2012), “Ảnh hưởng của
thơ điền viên đời Đường với thơ nhàn của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tạp chí văn học, số 09, tr 33 – 42.
9. Hà Ngọc Hòa (2012), “Con
người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm Đường luật”, Tạp chí khoa học, tập 72a, số 3, Đại học Huế, tr 131 – 137.
10.
Nguyễn Thanh Hoài
(2004), Văn học thế kỉ XVI – nửa đầu thế
kỉ XVIII trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại
học Vinh.
11.
Hồ Thị Huế (2008), So sánh tư tưởng nhàn dật trong Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Luận
văn thạc sĩ, Đại học Vinh.
12.
Hồ Thị Huế (2009), “Tư
tưởng nhàn dật của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập và của Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong Bạch Vân quốc ngữ thi”, Tạp chí
khoa học, tập XXXVIII, trường Đại học Vinh, tr 38 – 43.
13.
Hoàng Mạnh Hùng,
(2010), Quan niệm văn chương của Nguyễn
Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi, Luận văn thạc
sĩ, Đại học Vinh.
14.
Trần Đình Hượu (1999),
Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15.
Trần Đình Hượu (1985),
Vấn đề xuất xử của nhà nho và sự phát triển trong thơ Tam nguyên Yên Đổ, http://www.tonvinhvanhoadoc.vn.
16.
Vũ Thanh Huyền (2009),
Hệ thống chủ đề trong Bạch Vân quốc ngữ
thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
17.
Trần Thị Huyền (2013),
Sự hình thành và phát triển học thuyết âm
dương ngũ hành trong tư tưởng cổ đại Trung Quốc, http://www.huc.edu.vn.
18. Đinh Gia Khánh (chủ biên)
(1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Đinh Gia Khánh (chủ biên)
(2005) Văn học Việt Nam, thế kỷ X – nửa
đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Hà Thị Phương Loan (2007), Quan niệm nhân sinh trong Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi, Luận văn tốt nghiệp, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
21. Phạm Thị Loan (2011), Thế giới quan của các nhà nho trong xã hội
phong kiến Việt Nam, http://www.vanhoanghean.com.vn, ngày 8/6/2011.
22. Nguyễn Lộc (2007), Văn học Việt Nam, nửa cuối thế kỷ XVIII –
hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Phạm Luận (phiên âm và chú
giải) (2012), Nguyễn Trãi, Quốc âm thi
tập, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
24. Phương Lựu (chủ biên) ( 2006),
Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
25. Nguyễn Công Lý (2010), “Danh
nhân Nguyễn Trãi - sự hội tụ của tinh hoa văn hóa Thăng Long thời Lý - Trần” (Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long và 630 năm ngày sinh Nguyễn Trãi), http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày
30/6/2010.
26.
Nguyễn Công lý (2011) Bậc sư biểu bên bờ Tuyết giang, www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn,
ngày 11/ 12/ 2011.
27. Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên),
Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàm (2010), Giáo
trình lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
28. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
29. Bùi Túy Phượng (2010), Hình tượng con người công dân và con người
cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam, http://www.vanchuongviet.org,
ngày 26/5/2010.
30. Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện
khoa học xã hội Trung Quốc (2007), Lịch
sử văn học Trung Quốc, tập I, II (Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ, Nguyễn Trung
Hiền, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm dịch, Nguyễn Khắc Phi hiệu đính), Nxb Giáo
dục, HN.
31. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam, quan niệm về con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Hữu Sơn (2007), Nguyễn Trãi, tác gia tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Hữu Sơn (2012), “Minh
triết Nguyễn Trãi”, Tạp chí văn học, số
09, tr 9 – 21.
34. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
35. Bùi Duy Tân (1997), Khảo luận một số tác gia – tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Võ Thị Thanh Tâm (2007), Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm T.P Hồ Chí Minh.
37. Phạm Thị Phương Thái (2006), Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
38. Phạm Thị Phương Thái (2007),
“Nguyễn Trãi kẻ tư văn sinh đất Việt”, Khoa
học và Công nghệ, 3, tr 6 – 10.
39. Trần Thị Băng Thanh – Vũ
Thanh (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác gia
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Phạm Thị Thành (2005), Hình tượng ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học Vinh.
41. Lã Nhâm Thìn (2012), “Nguyễn
Trãi – người xưa của ta nay” nhìn từ quan điểm văn học”, Tạp chí văn học, số 09, tr 3 - 8.
42. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb giáo dục Việt Nam, Đà Nẵng.
43. Đỗ Lai Thúy (2012), Nguyễn Bỉnh Khiêm, lựa chọn như một lối ứng
xử, http://www.vhnt.org.vn, ngày 15/4/2012.
44. Nguyễn Đăng Tiến, Tư tưởng giáo dục Việt Nam thời Lê sơ, http://www.lrc-tnu.edu.vn.
45. Trung tâm nghiên cứu Quốc học
(2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên tập
1,2,3, NXB Giáo dục, Hà Nội.
46. Đào Tố Uyên (chủ biên)
(2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam,tập
II, từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội
47. Trần Nguyên Việt (2010), Tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về lý – đạo –
tâm, http://www.vanhoanghean.com.vn, ngày 19/1/2011.
48. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà Nho tài tử và văn học việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
49. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
50. Trần Quốc Vượng (2007), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
51. Trần Quốc Vượng (2012), Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hóa Việt Nam,
http://www.vanhoanghean.com.vn, ngày 26/11/2012.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Thống kê các bài thơ trùng lặp giữa hai
tập thơ “Quốc âm thi tập” và “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”
stt
|
Quốc âm thi tập
|
Bạch Vân quốc ngữ thi
|
stt
|
Quốc âm thi tập
|
Bạch Vân quốc ngữ thi
|
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
|
Bài
20
Bài
24
Bài
27
Bài
38
Bài
40
Bài
44
Bài
51
Bài
53
Bài
56
Bài
57
Bài
58
Bài
65
Bài
66
Bài
67
Bài
69
|
Bài
75
Bài
47
Bài
87
Bài
56
Bài
54
Bài
111
Bài
115
Bài
51
Bài
52
Bài
53
Bài
113
Bài
140
Bài
44
Bài
67
Bài
128
|
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
|
Bài
70
Bài
74
Bài
80
Bài
83
Bài
85
Bài
91
Bài
101
Bài
102
Bài
135
Bài
139
Bài
147
Bài
153
Bài
161
Bài
163
|
Bài
126
Bài
118
Bài
129
Bài
141
Bài
48
Bài
60
Bài
49
Bài
50
Bài
58
Bài
46
Bài 77
Bài 116
Bài 6
Bài 45
|
Ngoài 30 bài trùng với “Quốc âm thi tập”, “Bạch Vân Quốc ngữ thi” có các bài 95, 134, 145
trùng với “Hồng Đức quốc âm thi tập”
Phụ lục 2: Thống kê những bài thơ, những câu thơ thể
hiện sự đối lập giữa “nhàn dật” và công
danh, phú quý trong “Quốc âm thi tập”
stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
5,6/ 3
|
Dưới công danh đeo khổ nhục,
Trong dại dột có phong lưu.
|
2
|
3,4/ 6
|
Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lẩn,
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai.
|
3
|
1,2/ 11
|
Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy,
Có thân chớ để lợi danh vây.
|
4
|
7,8/ 22
|
Phú quý chẳng tham thanh tựa nước,
Lòng nào vạy mỗ hơi hơi.
|
5
|
1,2/ 23
|
Ngày tháng kê khoai những sản hằng,
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.
|
6
|
3,4/ 30
|
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách,
Đem công danh đổi lấy cần câu.
|
7
|
1,2,3,4/ 39
|
Vầu làm chèo trúc làm nhà,
Được thú vui ngày tháng qua.
Cơm kẻ bất nhân ăn ấy chớ,
Áo người vô ngĩa mặc chăng thà.
|
8
|
5,6/ 41
|
Giang sơn mặt thấy nên quen thuộc,
Danh lợi lòng nào ước chác cầu.
|
9
|
1,2/ 46
|
Trúc mai bạn cũ họp nhau quen,
Ngõ mận tường đào chân ngại chen.
|
10
|
5,6/ 47
|
Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm,
Dường thế nào nơi chẳng thấp cao.
|
11
|
1,2/ 50
|
Đến trường đào mận ngạc chăng thông,
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.
|
12
|
5,6/ 52
|
Những màng lẩn quất đường lan cúc,
Ắt ngại lanh chanh áng mận đào.
|
13
|
3,4/ 54
|
Non lạ nước thanh làm dấu,
Đất phàm cõi tục cách xa.
|
14
|
5,6,7,8/ 55
|
La ỷ dập dìu hàng chợ họp,
Cửa nhà bịn rịn tỏ ong tàng.
Thiên thơ án sách qua ngày tháng,
Một khắc cầm nên mấy lạng vàng.
|
15
|
5,6/ 61
|
Làm quan tha dại tài chẳng đủ,
Về ở thanh nhàn hẹn đã hồng.
|
16
|
3,4,5,6/ 63
|
Danh thơm một áng mây nổi,
Bạn cũ ba thu lá tàn.
Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt,
Thề xưa hổ có giang san.
|
17
|
3,4,5,6/ 73
|
Phú quý treo sương ngọn cỏ,
Công danh gửi kiến cành hòe.
Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc,
Ngày tháng tiêu ma một bát chè.
|
18
|
3,4/ 75
|
Áng cúc thông quen vầy bầu bạn,
Cửa quyền quý ngại lượm chân tay.
|
19
|
1,2,3,4/ 77
|
Giàu chăng gặp khó còn bằng,
Danh lợi lòng đà ắt dửng dưng.
Dò trúc xông qua làn suối,
Tìm mai theo đạp bóng trăng.
|
20
|
1,2/ 78
|
Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình,
Nài bao ngôi cả áng công danh.
|
21
|
3,4,7,8/ 84
|
Tuyết đượm chè mai câu dễ động,
Đìa in bóng nguyệt hứng thêm dài.
...
Chẳng thấy phồn hoa trong thủa nọ,
Ít nhiều gửi kiến cành hòe.
|
22
|
5,6/ 86
|
Công danh lỡ đường vô sự,
Non nước ghe chốn hữu tình.
|
23
|
7,8/ 96
|
Xét sự đã qua hay sự đến,
Bao nhiêu nơi nhục bởi nơi vinh.
|
24
|
1,2,3,4/ 121
|
Danh chăng chác lộc chăng cầu,
Được ít chẳng bằng mất chẳng âu.
Có nước nhiễu song non nhiễu cửa,
Còn thơ đầy túi rượu đầy bầu.
|
25
|
5,6/ 122
|
Sự thế chưng ta dầu đạm bạc,
Hiên mai đeo nguyệt quản tiêu dao.
|
26
|
1/ 124
|
Lấy biêu phú quý đổi biêu nhàn.
|
27
|
7,8/ 131
|
Kìa ai cây cả nhàn ngồi tựa,
Nếu có công nhiều lọ phải tranh.
|
28
|
1,2,7,8/ 140
|
Phú quý thì nhiều kẻ đến chen,
Uốn đòi thế thái tính chưa quen.
...
Ruộng nhiều quê tổ năm ba thửa,
Tạc tỉnh canh điền tự tại nhàn.
|
29
|
1,2,5,6/ 143
|
Bởi lòng chẳng ở cửa quyền,
Há rặng quân thần chẳng phải duyên.
...
Đem mình non nước nhàn qua tuổi,
Kết bạn thông mai ngõ phỉ nguyền.
|
30
|
4,7,8/ 150
|
Đường danh mối lợi hiểm khôn tìm.
...
Khóm ruộng ăn ngày tháng đủ,
Bạn cùng phiến sách tiếng đàn cầm.
|
31
|
3,4/ 155
|
Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,
Hai chữ công danh biếng vả vê.
|
32
|
3,4/ 156
|
Rồi việc mới hay khuôn được thú,
Khỏi quyền đã kẻo lụy chưng danh.
|
33
|
1,2/ 158
|
Chân mềm ngại bước dặm mây xanh,
Quê cũ tìm về cảnh cũ thanh.
|
34
|
5,6/ 159
|
Dưới công danh nhiều thác cả,
Trong dại dột có cơ mầu.
|
35
|
7,8/ 160
|
Kham hạ hiền xưa toan lẩn được,
Ngâm câu “danh lợi bất như nhàn”.
|
36
|
5,6,7,8/ 162
|
Được thì xem áng công danh dễ,
Đến lí hay cơ tạo hóa mầu.
Kham hạ Trương Lương chăng khứng ở,
Tìm tiên để nộp ấn phong hầu.
|
37
|
1,2,5,6/ 165
|
Mấy phen lần bước dặm thanh vân,
Đeo lợi làm chi luống nhọc thân.
...
Đìa thanh cá lội in vầng nguyệt,
Cây tĩnh chim về rợp bóng xuân.
|
38
|
7,8/ 168
|
Thấy bể triều quan đà ngại vượt,
Trong dòng phẳng có phong ba.
|
39
|
7,8/ 176
|
Hễ kẻ làm khôn thì phải khó,
Chẳng bằng vô sự gáy pho pho.
|
Phụ lục 3: Thống kê những bài thơ, câu thơ thể hiện
tâm trạng bất đắc chí của Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập”
stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
5,6,7,8/6
|
Dễ hay ruột bể sâu cạn,
Khôn biết lòng người vắn dài.
Sự thế dữ lành ai hỏi đến,
Bảo rằng ông đã điếc hai tai.
|
2
|
1,2/7
|
Trường ốc ba thu uổng mỗ danh,
Chẳng tài đâu xứng chức tiên sinh.
|
3
|
7,8/14
|
Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ,
Trời ban tối ước về đâu.
|
4
|
3,4/22
|
Thế sự người no ổi tiết bẩy,
Nhân tình ai ỏ cúc mùng mười.
|
5
|
1,2/34
|
Trường văn nằm ngả mấy thu dư,
Uổng tốn công nhàn biện lỗ ngư.
|
6
|
1,2/54
|
Cội cây la đá lấy làm nhà,
Lân các ai hầu mặc đến ta.
|
7
|
7,8/46
|
Mùi thế đắng cay cùng mặn chát,
Ít nhiều đã vẽ một hai phen.
|
8
|
6/72
|
Há để thân hèn tiếc tuổi tàn.
|
9
|
3,4/92
|
Gạch quẳng nào bày với ngọc,
Sừng hằng những mọc qua tai.
|
10
|
1,2,3,4,5,6/94
|
Ngồi coi tháng trọn lẫn ngày qua,
Luống phụ triều đình luống phụ nhà.
Đầu kế lăng căng những hổ,
Thân hèn lục cục mỗ già.
Giang sơn cách đường ngàn dặm,
Sự nghiệp buồn đêm trống ba.
|
11
|
1,2/95
|
Xin làm mỗ bộ quản giang san,
Có biết đâu là sự thế gian.
|
12
|
1,2/100
|
Vận trị cùng loàn chuẩn mặc thì,
Bằng ta sinh uổng có làm chi.
|
13
|
1,2/106
|
Uổng có thân hèn cực thửa nuôi,
Ghe đường dại dột mỗ nên xuôi.
|
14
|
1,2,3,4/108
|
Chim có miệng kêu âu ngậm lại,
Cáo khuyên lòng ở mựa còn ngờ.
|
15
|
1,2/110
|
Ngủ thì nằm đói lại ăn,
Việc vàn ai hỏi áo bô cằn.
|
16
|
3,4/115
|
Cúc đợi đến thu hương chỉn muộn,
Mai sinh phải tuyết lạnh chăng hiềm.
|
17
|
5,6/120
|
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng,
Hoa thì hay héo cỏ thường tươi.
|
18
|
7,8/137
|
Có chẳng có tài dùng chẳng đến,
Mựa rằng thánh đức có nơi khuây.
|
19
|
7,8/159
|
Đạo quân thân nhẫn dầu ai lỗi,
Hổ xanh xanh ở trốc đầu.
|
Phụ lục 4: Thống kê những bài thơ,
câu thơ thể hiện khát vọng sống nhàn của Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập”
stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
2/2
|
Xá lánh thân nhàn thuở việc rồi.
|
2
|
4/6
|
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai.
|
3
|
7,8/16
|
Một phút thanh nhàn trong thuở ấy,
Thiên kim ước đổi được hay chăng.
|
4
|
7,8/29
|
Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa,
Sá tiếc mình chơi áng thủy vân.
|
5
|
3,4,5,6/30
|
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách,
Đem công danh đổi lấy cần câu.
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ,
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu.
|
6
|
7,8/35
|
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
|
7
|
7,8/42
|
Mạc được thú mầu trong thuở ấy,
Thế gian hay một khách văn chương.
|
8
|
3,4/46
|
Chơi nước chơi non đeo tích cũ,
Qua ngày qua tháng dưỡng thân hèn.
|
9
|
5,6/61
|
Làm quan tha dại tài chẳng đủ,
Về ở thanh nhàn hẹn đã hồng.
|
10
|
7,8/63
|
Ấy còn cậy cục làm chi nữa,
Nếu cốt chưa nong chẩm chưa toan.
|
11
|
7,8/71
|
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy,
Viên hạc chăng hờn lại những thương.
|
12
|
5,6/73
|
Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc,
Ngày tháng tiêu ma một bát chè.
|
13
|
7,8/75
|
Tuổi đã năm mươi đầu đã bạc,
Ấy còn bìu rịn lấy chi vay.
|
14
|
7,8/77
|
Một phút thanh nhàn trong thuở ấy,
Nghìn vàng ước đổi được hay chăng.
|
15
|
1,2/88
|
Lân la mến cảnh sơn khê,
Sự thế nên vong hết mọi bề.
|
16
|
5,6/98
|
Gia sơn cũ còn mường tượng,
Thân sự già biếng nói năng.
|
17
|
5,6/107
|
Hẹn này lỡ phụ ba đường cúc,
Tiếc ấy vì hay một chữ đinh.
|
18
|
7,8/108
|
Ta ắt muốn nhàn quan muốn lạnh,
Lo thay vì lụy phải thờ ơ.
|
19
|
5,6/115
|
Gia sơn đường cách muôn dặm,
Ưu ái lòng phiền nửa đêm.
|
20
|
2/116
|
Được nhàn ta ắt xá tiêu diêu.
|
21
|
1,2/117
|
Lan còn chín khúc cúc ba đường,
Quê cũ chẳng về nỡ bỏ hoang.
|
22
|
5,6/118
|
Lồng chim ao cá từ làm khách,
Ngòi nguyệt ngàn mai phụ lệ nhà.
|
23
|
2/122
|
Lâm tuyền chưa khứng dứt chiêm bao.
|
24
|
1/124
|
Lấy biêu phú quý đổi biêu nhàn.
|
25
|
7,8/133
|
Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả,
Qua ngày qua tháng được an nhàn.
|
26
|
5,6/143
|
Đem mình non nước nhàn qua tuổi,
Kết bạn thông mai ngõ phỉ nguyền.
|
27
|
1,2/155
|
Nghìn dặm xem mây nhớ quê,
Chẳng chờ cởi ấn gắng xin về.
|
28
|
7,8/176
|
Hễ kẻ làm khôn thì phải khó,
Chẳng bằng vô sự gáy pho pho.
|
29
|
7,8/186
|
Say rượu no cơm cùng áo ấm,
Trên đời chỉn ấy khách là tiên.
|
30
|
5,6/189
|
Phong sương đã bén biên thi khách,
Tang tử còn thương tích cố gia.
|
Phụ lục 5: Thống kê những bài thơ thể hiện mâu thuẫn
xuất – xử của Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập”
stt
|
Tên
bài
|
stt
|
Tên
bài
|
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
|
2
8
10
12
15
18
19
30
43
50
54
|
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
|
68
71
82
113
94
106
107
109
158
159
|
Phụ lục 6: Thống kê những bài thơ, câu thơ thể hiện
niềm hạnh phúc sống nhàn trong “Bạch Vân
quốc ngữ thi tập”
stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
7,8/3
|
Thong thả: hôm khuya nằm,
sớm thức,
Muôn vàn đã đội đức trời
Nghiêu.
|
2
|
2/8
|
Được nhàn, ta sá dưỡng thân
nhàn.
|
3
|
6/9
|
Trong nơi ẩn dật mấy nên
mầu.
|
4
|
6/10
|
Thú nhàn sơn dã mới hay
mùi.
|
5
|
2/11
|
Thân nhàn, phúc lại được về
nhàn.
|
6
|
5,6/13
|
Rỗi nhàn thì ấy tiên vô sự,
Ngâm ngợi cho nên cảnh hữu
tình.
|
7
|
7,8/14
|
Am quán ngày nhàn, rồi mọi
việc,
Dầu ta tự tại, mặc dầu ta.
|
8
|
3/15
|
Nhàn được thú quê dầu nấn
ná.
|
9
|
1,2/16
|
Một bầu, một bát, vững sơn
tăng,
Thế sự ngoài tai biếng nói
năng.
|
10
|
7,8/18
|
Năm hồ khách thênh thênh
thuyền mọn,
Chờ nguyệt đêm thanh hé
bóng mai.
|
11
|
7,8/19
|
Ngày ngày tiêu sái nhàn vô
sự,
Tuy chửa là tiên ấy ắt
tiên.
|
12
|
7,8/23
|
Đến chốn nào vui chốn ấy,
Dầu ta tự tại, có ai han.
|
13
|
5/24
|
Vui thanh vắng đà rồi việc.
|
14
|
6/28
|
Ẩn dật ta hay thú có mầu.
|
15
|
5/29
|
Nhàn được thú vui hay nấn
ná.
|
16
|
5/30
|
Chốn điền viên cũ dầu thong
thả.
|
17
|
7,8/31
|
Thanh nhàn ấy ắt là tiên
khách,
Được thú ta đà có thú ta.
|
18
|
3,4/32
|
Cảnh có nước non nhàn được
thú,
Hứng vì thơ rượu chở qua
ngày.
|
19
|
7,8/33
|
Có thuở lên lầu ngồi đợi
nguyệt,
Một mình uống lại một mình
kham.
|
20
|
2/35
|
Nẻo được nhàn thì kẻo có
nghèo.
|
21
|
3,4/41
|
Cảnh cũ điền viên tìm chốn
cũ,
Khách nhàn sơn thủy dưỡng
thân nhàn.
|
22
|
5,6,7,8/42
|
Hữu tình là cảnh đà cùng
hẹn,
Vô sự thì tiên lọ phải tìm.
Bạn cũ kỳ anh xuân họp mặt,
Lòng mừng phơi phới nhẹ tăm
tăm.
|
23
|
8/64
|
Chữ rằng: “Vô sự tiểu thần
tiên”.
|
24
|
7,8/66
|
Song hiên ngỏ cửa ngồi xem
sách,
Tự tại ngày qua mấy kẻ
bằng.
|
25
|
7,8/81
|
Bốn mùa đều hưởng thiên
nhiên lộc,
Thong thả ngồi chơi cõi
Thuấn Nghiêu.
|
26
|
1,2,3,4/83
|
Nép mình qua trước chốn lao
xao,
Mấy sự bên tai, gió thổi
phào.
Cửa trúc vỗ tay cười khúc
khích,
Hiên mai vắt cảnh hát nghêu
ngao.
|
27
|
1,2,3,4/84
|
Giàu mặc phận, khó đâu bì,
Đọ thanh nhàn, khá nhất
nhì.
Vếu váo câu thơ cũ rích,
Khề khà chén rượu hăng xì.
|
28
|
3,4/86
|
Hứng ý, miệng ngâm câu quốc
ngữ.
Giải phiền, tay chuốc chén quỳnh
xuân.
|
29
|
1,2/90
|
Mặc chê dể, mặc yêu thương.
Vô sự thì hơn nữa ngọc
vàng.
|
30
|
7,8/100
|
Mắc một bệnh này, chừa
chẳng khỏi,
Đã thôi chén rượu lại câu
thơ.
|
31
|
1, 2/120
|
Lẻ tẻ bên giang bảy tám
nhà,
Thú nhàn mừng thấy bạn ngâm
nga.
|
32
|
1,2/121
|
No bữa hôm, đủ bữa mai,
Gẫm lâu chăng đã thú nhà
vui.
|
33
|
1,2,3,4/133
|
Làm chi nghĩ ngợi nhọc tinh
thần,
Đắc thú thanh nhàn ấy dưỡng
thân.
Đủng đỉnh hôm mai, chơi
nước trí,
Nghêu ngao ngày tháng, dạo
non nhân.
|
34
|
2/135
|
Ta tuổi bốn mươi đã được
nhàn.
|
35
|
6/139
|
Vui thú ẩn một cần câu.
|
36
|
5,6,7,8/142
|
Ngắm chơi trải miền thôn
dã,
Hóng mát từng vui chốn
thạch bàn.
Một cỏ hoa đều đủ được,
Rất vời thong thả cõi trần
gian.
|
37
|
3,4,5,6/143
|
Đèo núi vỗ tay cười khúc
khích,
Rặng thông vắt cẳng hát
nghêu ngao.
Đòi nơi phong nguyệt vui
thay đấy,
Dầu phận công hầu bận được
nao.
|
Phụ lục 7: Thống kê những bài thơ, câu thơ thể hiện
sự đối lập giữa “nhàn dật” và công danh, phú quý trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”
Stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
3,4/1
|
Ưu ái vằng vặc trăng in nước,
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.
|
2
|
1,2/8
|
Thấy dặm thanh vân bước ngại chen,
Được nhàn ta sá dưỡng thân nhàn.
|
3
|
5,6/9
|
Thuở áng công danh, nhiều phải lụy,
Trong nơi ẩn dật có cơ mầu.
|
4
|
1,2,3,4/15
|
Già đã khỏi áng công danh,
Tự tại nào đâu lụy đến mình.
Nhàn được thú quê dầu nấn ná,
Nghĩ xem thế sự, biếng đua tranh.
|
5
|
7,8/16
|
Nẻo có công danh thì có lụy,
Cho hay dù có chẳng bằng chăng.
|
6
|
3,4/ 18
|
Vì danh cho phải danh làm lụy,
Được đạo thì hay đạo có mùi.
|
7
|
1,2/22
|
Vì danh cho phải lụy đòi phen,
Phận khó khăn xưa ắt đã quen.
|
8
|
3,4/ 31
|
Lòng vô sự, trăng in nước,
Của thảng lai, gió thổi hoa.
|
9
|
3,4/40
|
Mùi thế gian nhiều mặn lạt,
Đường danh lợi mặc có chông gai.
|
10
|
5,6/41
|
Nhà thông, đường trúc lòng hằng
mến,
Cửa mận tường đào bước ngại chen.
|
11
|
5,6/61
|
Khách ở vườn đào cao mấy trượng,
Người đeo thói tục thấp nhiều bề.
|
12
|
7,8/64
|
Ở thế có khôn thì có khó,
Chữ rằng vô sự tiểu thần tiên.
|
13
|
1,2/70
|
Áng công danh sá cắp tay,
Nhiều phen đã khỏi tiếng tai bay.
|
14
|
7,8/73
|
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
|
15
|
3,4/142
|
Đường lợi há theo thị tỉnh,
Cảnh thanh chiếm hết giang san.
|
16
|
3,4/144
|
Một am phong nguyệt tớ vui tớ
Hai chữ công danh, ngươi mặc người.
|
Phụ lục 8:
Thống kê những bài thơ, câu thơ thể hiện tư tưởng “thiên mệnh” trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”
Stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
8/2
|
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai.
|
2
|
1/9
|
Mệnh ở trời há phải cầu.
|
3
|
7,8/11
|
Trời cũng biết nơi lành dữ,
Họa phúc chăng dong cái tóc chen.
|
4
|
2/18
|
Dòm cơ tạo hóa đã càng soi.
|
5
|
4/21
|
Khó khăn dầu mệnh ở trời.
|
6
|
4/36
|
Máy nên những lệ thuở công nên.
|
7
|
2/37
|
Một kho tạo hóa cũng chia đều.
|
8
|
7/57
|
Vốn trời phân đà có tính.
|
9
|
1/68
|
Tiền tài là số của lưu thông.
|
10
|
1/80
|
Trời sinh, trời ắt đã dành phần.
|
11
|
1/86
|
Mới hay thế sự bởi thòi vần.
|
12
|
7/92
|
Thanh nhàn ta miễn yên đòi phận.
|
13
|
7/96
|
Chữ rằng phú quý giai do mệnh.
|
14
|
7/105
|
Kham hạ ví trời còn để.
|
15
|
1/106
|
Trời sinh vật kể dư vàn.
|
16
|
7/112
|
Mặc trời phú tính yên đòi phận.
|
17
|
7,8/ 123
|
Dầu nhẫn chẳng sang thì sức khỏe,
Trời cao lồng lộng có thăng bằng.
|
18
|
7/136
|
Trời nẻo có sinh thì có dưỡng.
|
19
|
5/137
|
Khôn tỏ trời xanh cao mấy tấc.
|
20
|
7,8/139
|
Mừng thay tạo hóa làm công bấy,
Giàu, khổ, sang, nhàn cũng bạc đầu.
|
21
|
7/144
|
Sang khó miễn yên đòi phận.
|
22
|
1/145
|
Trời phú tính ở mình ta.
|
23
|
2/148
|
Anh em trời đã thực cho ta.
|
24
|
11,2/154
|
Tượng trời âu đã quá đồng cân,
Định cho ai, ắt có phần.
|
25
|
8/157
|
Tội trời khôn thể tránh đâu nào?
|
26
|
1/158
|
Dầu sang trọng, cũng là trời.
|
Phụ lục 9:
Thống kê những câu thơ, bài thơ thể hiện tư tưởng “thiên mệnh” trong “Quốc âm thi tập”.
Stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
1/10
|
Sang cùng khó bởi chưng trời.
|
2
|
8/45
|
Tượng có trời bày đặt vay.
|
3
|
2/71
|
Ắt vì sống mệnh ắt văn chương.
|
4
|
7,8/ 73
|
Chân chạy cánh bay ai mỗ phận,
Thiên công nào có thửa tư che.
|
5
|
5,6/78
|
Trẻ dầu chơi con tạo hóa,
Già lọ phục thuốc trường sinh.
|
6
|
5/88
|
Giàu mặc phận nguôi lòng ước.
|
7
|
1/96
|
Trời phú tính uốn nên hình,
|
8
|
3,4/103
|
Bành được thương thua con tạo hóa,
Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên.
|
9
|
1/104
|
Tự nhiên đắp đổi đạo trời.
|
10
|
1/116
|
Hơn thiệt đành phần sự chửa liều.
|
11
|
7,8/146
|
Trời đã có kho vôn tận,
Dành để nhi tôn khỏi bợ vay.
|
12
|
1/167
|
Làm người biết máy khôn sao.
|
13
|
7/175
|
Vắn dài được mất dầu thiên mệnh.
|
14
|
5/182
|
Già mặc số trời đất.
|
Phụ lục 10:
Thống kê những bài thơ, câu thơ thể hiện quy luật âm dương tiêu trưởng trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập
Stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
1,2,3,4,5,6,7,8/2
|
Giàu chỉn chện, khó lai
dai,
Vần chuyển lưu thông há của ai.
Vũng nọ ghê khi làm bãi cát,
Doi kia có thuở lút hòn
Thai.
Khôn ngoan mới biết thăng
thì giáng,
Dại dột nào hay tiểu có đài.
Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi,
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai.
|
2
|
7,8/10
|
Làm người chớ thấy tài mà cậy,
Có nhọn bao nhiêu, lại có tùi.
|
3
|
1,2/18
|
Nẻo nhọn bao nhiêu lại có tùi,
Dòm cơ tạo hóa đã càng soi.
|
4
|
1,2/25
|
Một cơ yêu nhục đổi thay
đều,
Yêu bao nhiêu thì nhục
bấy nhiêu.
|
5
|
7,8/36
|
Vinh nhục một cơ hằng
đắp đổi,
Ắt là từng thấy một hai phen.
|
6
|
7,8/41
|
Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi,
Từng xem thua được
một hai phen.
|
7
|
1,2/57
|
Chưng trong họa phúc
ít người hay,
Suy, thịnh hằng lề đắp đổi
thay.
|
8
|
7/59
|
Thế gian há sự lành càng dữ.
|
9
|
7/64
|
Ở thế có khôn thì có khó.
|
10
|
1,2/71
|
Thế gian biến cải vũng nên doi,
Mặn lạt, chua cay
lẫn ngọt bùi.
|
11
|
7,8/94
|
Chớ cậy rằng khôn kinh kẻ dại,
Gặp thời, dại cũng hóa nên khôn.
|
12
|
3,4,5,6/98
|
Sen, mùa trước đổi, mùa
sau mọc,
Triều, cửa này ròng, cửa
khác cường.
Âm đã lại dương đành máy
nhiệm,
Bĩ thôi lại thái ấy cơ thường.
|
13
|
7,8/103
|
Trời còn đấy, đất còn đấy,
Bể biển, non dời, cạn lại sâu.
|
14
|
5,6/131
|
So xem thế thái khi tan hợp,
Khá gẫm nhân gian thuở thắm phai.
|
Phụ lục 11:
Thống kê những câu thơ, những bài thơ thể hiện quy luật âm dương tiêu trưởng
trong “Quốc âm thi tập”.
Stt
|
Câu/ bài
|
Câu thơ
|
1
|
1,2/104
|
Tự nhiên đắp đổi đạo trời,
Tiêu trưởng doanh hư một phút rời.
|
2
|
1,2/132
|
Phúc của chung thì họa của chung,
Nắm thì họa khỏi phúc về cùng.
|
3
|
1,2/133
|
Lấy khi phú quý đắp cơ hàn,
Vần chuyển chẳng dừng sự thế gian.
|
4
|
2/136
|
Phúc họa tình cờ xảy chửa đành.
|
5
|
6,7/144
|
Lấy khi phú quý đắp cơ hàn,
Cho hay bĩ thái mãi lề cũ.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét