ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
DƯƠNG
THỊ HOÀN
SỰ VẬN ĐỘNG TƯ TƯỞNG NHÀN
TỪ THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI ĐẾN THƠ NÔM NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Chuyên
ngành: Văn học Việt Nam
Mã
số: 60220121
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Thái
Nguyên - 2013
Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm
Thị Phương Thái
Hội đồng phản biện:
Chủ tịch Hội đồng: PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn - Viện văn học
Phản biện 1: TS.
Ngô Thị Thanh Nga - Trường ĐHSP Thái Nguyên
Phản biện 2: TS. Dương Thu Hằng - Trường ĐHSP Thái Nguyên
Ủy viên Hội đồng: PGS.TS. Nguyễn Thị Huế - Viện Văn học
Thư ký Hội đồng: TS. Ngô Gia Võ - Trường ĐHSP Thái Nguyên
Luận văn được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn họp tại:
Trường Đại học
Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
Vào hồi 15 giờ, Ngày 18 tháng 05 năm
2013
Có
thể tìm hiểu luận văn tại:
TRUNG TÂM HỌC LIỆU ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
THƯ
VIỆN TRƯỜNG ĐHSP - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Tư tưởng luôn là
con đẻ của một xã hội nhất định. Tư tưởng của một thời đại hay của mỗi cá nhân
đều được nảy sinh và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã
hội thời đại đó.
Nguyễn Trãi và Nguyễn
Bỉnh Khiêm là hai nhà tư tưởng lớn của dân tộc. Các ông đã góp phần không nhỏ
trong việc tạo nên diện mạo tư tưởng của dân tộc ta trong hai thế kỷ XV, XVI. Tư
tưởng của các ông chủ yếu thể hiện qua những sáng tác văn học. Do vậy, tìm hiểu
những sáng tác thơ ca của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong các
phương thức tiếp cận tư tưởng của hai ông.
Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi có khá nhiều điểm gần gũi. Trong đó, sự gặp
gỡ ở tư tưởng “nhàn” là một vấn đề khá nổi bật. Bên cạnh những tương đồng nhất
định, tư tưởng sống “nhàn” của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm cơ bản có sự
khác biệt. Nguyễn Trãi sống “nhàn” để kiếm tìm sự thanh sạch của tâm hồn và an
ủi trái tim cô đơn. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng tìm đến “nhàn” để di dưỡng tinh
thần. Nhưng không dừng lại ở đó, ông đã nâng tư tưởng này thành một triết lý
sống, tuyên truyền cho mọi người nhằm hóa giải những tranh giành, ganh đua
trong xã hội. Điểm khác biệt ấy cho thấy sự vận động của tư tưởng “nhàn” từ
Nguyễn Trãi đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sự vận động này chắc hẳn đã chịu ảnh hưởng
từ những biến thiên lớn lao của bối cảnh xã hội nước ta giữa hai thế kỷ XV,
XVI. Đây chính là điểm thu hút chúng tôi lựa chọn đề tài “Sự vận động tư tưởng “nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm”.
1.2. Lý do thực
tiễn
Thực hiện đề tài,
chúng tôi mong muốn góp thêm một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
học tập, giảng dạy những sáng tác của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn
Trãi
Vấn đề sống
“nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đã được nhiều tác giả đề cập trong các bài
viết, các công trình nghiên cứu:
- Văn
chương Nguyễn Trãi của Bùi Văn Nguyên.
- Nguyễn
Trãi và Nho giáo của Trần Đình Hượu.
- Tư tưởng
của Nguyễn Trãi và Ảnh hưởng và địa
vị của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam của Nguyễn Thiên Thụ.
- Một vài
nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm – Hoài Thanh.
- Nhà
tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong Quốc âm thi tập - Trần Ngọc Vương.
- Về cảm
quan Phật giáo trong thơ Nguyễn Trãi - Nguyễn Hữu Sơn
- Bi
kịch tinh thần của nhà nho Việt Nam với tính cách là một nhân vật văn hóa –
Trần Nho Thìn.
...
Tuy có nhiều cách
nhìn nhận về chữ “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi nhưng tựu chung các nhà
nghiên cứu đều cho rằng đó là sự “nhàn” bất đắc chí.
2.2. Lịch sử nghiên cứu tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trong thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm tư tưởng “nhàn” là một vấn đề nổi bật đã có khá nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, tiêu biểu:
- Nguyễn Bỉnh Khiêm và tấm lòng lo
trước thiên hạ đến già chưa nguôi - Đinh Gia Khánh.
- Thơ nhàn của nguyễn Bỉnh Khiêm – Phạm
Luận.
- Những xung đột nghệ thuật và tư tưởng thẩm
mỹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Nguyễn Phạm Hùng.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm – Nhìn từ một nhân cách
lịch sử đến dòng thơ tư duy thế sự - Nguyễn Huệ Chi.
- Luận văn Thạc
sĩ Quan niệm văn chương của Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua Bạch Vân am thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi - Hoàng Mạnh Hùng.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm - Văn Tân.
- Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Lê Trí Viễn.
- Luận về Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hà Như Chi.
- Luận văn Thạc sĩ Hệ thống chủ đề
trong Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Vũ Thanh Huyền...
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều cho rằng tư tưởng “nhàn” trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm mang một tâm thế chủ động, ung dung, tự tại.
2.3. Lịch sử nghiên cứu tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi và
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cái nhìn đối sánh.
Đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu, bài viết đặt tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi và Nguyễn
Bỉnh Khiêm trong cái nhìn đối sánh.
- Triết lý và thơ ở Nguyễn Bỉnh Khiêm –
Trần Đình Hượu.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết
lý - Lê Trọng Khánh, Lê Anh Trà.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm và tấm lòng
tiên ưu đến già chưa thôi - Bùi Duy Tân.
- Luận văn Thạc
sĩ “So sánh tư tưởng nhàn dật của Nguyễn
Trãi trong Quốc âm thi tập và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập”
- Hồ Thị Huế.
....
Từ những nhận
định trên, chúng tôi nhận thấy rằng các nhà nghiên cứu đã có những cái nhìn
tương đối khái quát về vấn đề tư tưởng “nhàn” trong thơ của Nguyễn Trãi và
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một số nhà nghiên cứu đặt tư tưởng “nhàn” của hai thi hào
dưới cái nhìn đối sánh. Tuy nhiên chưa có nhiều bài nghiên cứu, công trình
nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu, phân tích một cách cụ thể sự vận động của tư
tưởng “nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thực hiện đề
tài, chúng tôi mong muốn cung cấp thêm một góc nhìn về phương diện tư tưởng của
các tác phẩm giá trị này. Đồng thời, bước đầu lý giải nguyên nhân sự vận động tư
tưởng “nhàn” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới góc độ
xã hội, thời đại.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục
đích:
- Chỉ ra sự vận
động của tư tưởng “nhàn” từ vấn đề quan niệm sống của cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn
Trãi đến vấn đề triết lý sống của thời đại trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Bước đầu lí
giải nguyên nhân của sự vận động đó.
- Khẳng định những
đóng góp về mặt tư tưởng của hai đại thi hào. Đồng thời phần nào xác định sự
vận động của tư tưởng “nhàn” trong văn học dân tộc từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVI.
Nhiệm vụ:
- Khảo sát, thống kê, chỉ ra các
biểu hiện của tư tưởng “nhàn” trong Quốc
âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi
tập.
- Phân tích các biểu hiện của tư tưởng “nhàn” trong Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
- Chỉ ra sự vận động của tư tưởng “nhàn” từ thơ Nôm
Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Tìm hiểu đặc điểm lịch sử - xã hội,
văn hóa thế kỉ XV, XVI, những yếu tố cuộc đời của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh
Khiêm để bước đầu lí giải nguyên nhân của sự vận động.
4. Đối tượng và phạm vi
nghiên cứu
- Đối tượng
nghiên cứu: Tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi và thơ Nôm của Nguyễn
Bỉnh.
- Phạm vi nghiên
cứu: Tác phẩm Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của
Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Trong một chừng
mực nhất định, chúng tôi sử dụng một số tác phẩm thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi và
Nguyễn Bỉnh Khiêm, sáng tác của một số tác giả trung đại để đối chiếu, so sánh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp
nghiên cứu lý thuyết: tổng hợp những vấn đề lý thuyết có liên quan đến tư tưởng
“nhàn” trong văn học trung đại.
- Phương pháp
thống kê, phân loại.
- Phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp
tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm văn học.
- Phương pháp
tiếp cận xã hội học đối với tác phẩm văn học.
6. Đóng góp của đề tài
- Cung cấp cái
nhìn rõ ràng hơn về các đặc điểm của tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Chỉ ra sự vận
động của tư tưởng này từ vấn đề quan niệm sống của con người cá nhân trong thơ
Nguyễn Trãi đến vấn đề triết lý sống của thời đại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Bước đầu lý giải nguyên nhân của sự vận động
ấy từ góc độ xã hội, thời đại.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc đề tài gồm ba
chương:
Chương 1: Tiền đề lịch sử - xã hội, văn hóa chi phối sự hình
thành tư tưởng “nhàn” trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chương 2: “Nhàn”
trong Quốc âm thi tập – quan niệm
sống của cái tôi cô đơn
Chương 3: “Nhàn” trong Bạch
Vân quốc ngữ thi tập – triết lý sống
giữa thời loạn
NỘI DUNG
Chương 1
TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ - XÃ HỘI, VĂN
HÓA CHI PHỐI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG “NHÀN” TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1.1. Tư tưởng “nhàn” trong văn học trung
đại
1.1.1. Nguồn gốc văn hóa, xã hội của tư tưởng “nhàn”
1.1.1.1. Cơ sở văn hóa, tư tưởng
Sự kết hợp giữa đường lối tu thân và vấn đề “xuất
– xử” của nhà nho; phương châm sống “tri túc”, “tự lạc”, gạt bỏ danh lợi, diệt
trừ dục vọng để đạt đến “hư tâm” của triết học Lão – Trang và vấn đề “giải
thoát” của Phật giáo là những tiền đề văn hóa góp phần tạo nên diện mạo của tư
tưởng “nhàn” trong văn học trung đại.
1.1.1.2. Tiền đề lịch sử - xã hội
Hiện thực xã hội
suy đồi, loạn lạc là nguyên nhân gây nên những rạn nứt, đổ vỡ trong tâm hồn nhà
nho. Từ đó dẫn đến tâm thế chán nản, đau đớn giằng xé và dần dần hình thành
mong ước quy ẩn, sống “nhàn”. Soi chiếu vào
thực tế lịch sử phong kiến Việt Nam, các giai đoạn khủng hoảng mạt triều, đặc
biệt thời kỳ thế kỷ XVI, XVII, đầu thế kỷ XVIII ta sẽ thấy rõ điều này. Thực
trạng xã hội lũng đoạn đó đã làm xuất hiện hàng loạt những nho sĩ quy ẩn, tìm
về với cuộc sống “nhàn” như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Hàng, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Dữ, Nguyễn Khuyến…
1.1.1.3. Hình tượng ẩn sĩ và thơ điền
viên Trung Hoa với sự hình thành hình tượng nhà Nho ẩn dật trong văn học trung
đại Việt Nam
Sự linh hoạt
trong hành xử của Nho giáo kết hợp với tư tưởng vô vi của Lão – Trang, tư tưởng
siêu thoát của Phật dẫn tới sự xuất hiện tầng lớp ẩn sĩ. Ở Việt Nam, lớp người
ẩn sĩ cũng xuất hiện và tồn tại như một loại hình nhân vật văn hóa. Ẩn sĩ Việt
Nam không có xu hướng tìm kiếm sự thoát li tuyệt đối. Dù thân sống “nhàn” nhưng
tâm còn mang nặng nỗi ưu tư vì dân vì nước.
Thi ca trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Đường thi. Vì vậy,
cảm hứng “xuất thế” trong thơ điền viên đã chi phối không nhỏ đến cảm hứng sáng
tác của các thi nhân Việt. Tuy nhiên, thơ “nhàn” của các nho sĩ trung đại Việt
Nam chưa đạt đến cảnh giới tối cao - trạng thái tịch diệt vô biên, vô vi, siêu
thoát.
1.1.2. Một số biểu hiện của tư tưởng “nhàn”
trong văn học trung đại
1.1.2.1. Một số cách hiểu về khái niệm “nhàn”
Theo cách
định nghĩa của từ điển, “nhàn” là “có ít hoặc không có việc gì phải làm, phải
lo nghĩ” [2, 283].
Chữ “nhàn”
trong quan niệm của Nho giáo là phép ứng xử với hoàn cảnh xã hội biến động, suy
đồi của tầng lớp Nho sĩ.
1.1.2.2. Một số biểu hiện của tư tưởng
“nhàn” trong văn học trung đại
Tư tưởng
“nhàn” trong văn học được thể hiện qua: hình tượng cái tôi trữ tình tác giả và
hình tượng thiên nhiên.
Hình tượng
tác giả thể hiện hình ảnh một bậc nho sĩ giữ tiết xem thường công danh phú quý,
một hiền nhân trong tâm thế ung dung, tự tại tận hưởng cái thi vị của cuộc sống
ẩn dật, ca tụng thú thanh nhàn.
Thiên nhiên thuần
khiết, giản dị là môi trường sống lí tưởng của nho sĩ, đồng thời biểu tượng của
đạo lý.
1.2. Đôi nét phác họa về thời đại,
con người, sự nghiệp của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.2.1. Thời đại, con người và sự
nghiệp của Nguyễn Trãi
1.2.1.1. Bức tranh xã hội “thời đại Nguyễn
Trãi”
Nguyễn Trãi sinh vào giai đoạn nhà Trần
bước vào thời kì khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn
ra ngày càng trầm trọng.
Tháng 2 -
1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần lập nhà Hồ.
Năm 1407, giặc Minh chiếm nước ta.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1416 – 1428) đã đánh tan giặc
Minh, giành lại bình yên cho dân tộc.
Từ năm 1428, nhà Lê sơ bước vào xây dựng chính quyền. Trong
nội bộ triều đình xuất hiện nhiều mâu thuẫn, chia rẽ, nghi kị, bè phái. Nhiều công
thần bị giết hại, bỏ tù. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh xã hội thời kì này đang
phát triển theo hướng tích cực. Bằng chứng là đến (1460 – 1497), dưới sự cai
trị của Lê Thánh Tông, nhà nước phong kiến Việt Nam phát triển đến cực thịnh.
1.2.1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác Nguyễn Trãi
- Cuộc đời: Nguyễn
Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai là một người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam,
một danh nhân văn hóa thế giới. Ông là nhà tư tưởng, nhà chính trị, quân sự tài
ba, đồng thời là một tên tuổi bậc nhất của nền văn học Việt Nam.
Trong cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn, sự cống hiến của Nguyễn Trãi là vô cùng to lớn, quan trọng. Tuy nhiên,
sau khi đất nước hòa bình, ông đã trải qua hàng loạt bi kịch. Điều đó làm nảy
sinh tư tưởng “nhàn dật” ở ông. Từ bỏ triều quan, ông ôm một nỗi ngậm ngùi về
với Côn Sơn (1439 – 1440).
-Năm 1442, Nguyễn Trãi mắc vào án oan Lệ Chi
Viên.
- Năm 1464, nỗi oan thống thiết của gia
tộc Nguyễn Trãi được vị minh quân Lê Thánh Tông chiêu tuyết.
- Sự nghiệp văn học: Về văn chính luận: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí,
Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục. Về thơ: Ức Trai
thi tập và Quốc âm thi tập. Nguyễn Trãi đã có những đóng góp quan trọng cho sự
phát triển văn học dân tộc trên nhiều lĩnh vực: ngôn ngữ, thể thơ, nội dung tư
tưởng... Từ đó, đặt nền móng cho sự phát triển văn học theo
hướng dân tộc hóa.
1.1.1.3. Vài nét
về Quốc âm thi tập
Quốc âm thi tập tập hợp 254 bài thơ Nôm, được sáng
tác chủ yếu vào giai đoạn cuối cuộc đời. Tập thơ là nơi chứa đựng những tâm sự
sâu kín, những day dứt về nhân sinh thế sự, đạo lý luân thường, những trăn trở
về lẽ “xuất – xử”, “hành – tàng”, khát khao sống với thiên nhiên… của vĩ nhân Nguyễn Trãi.
Với tập thơ, Nguyễn Trãi
đã có cống hiến quan trọng
về phương diện thi pháp nghệ thuật: sáng tạo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, đưa vào thơ cách
luật những từ ngữ đời thường, những hình ảnh dung dị của cuộc sống.
1.2.2. Thời đại, con người và sự nghiệp
của Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.2.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội Việt
Nam thế kỷ XVI
Thế kỉ XVI được giới sử học nhìn nhận là thời kỳ bi thương,
loạn lạc trong lịch sử dân tộc, thế kỷ của chiến tranh, cát cứ, gây nên cảnh
núi xương, sông máu và biết bao nỗi thống khổ cho nhân dân. Trong vòng hơn một
thế kỉ (1533 - 1672), đất nước nằm trong mớ bùi nhùi của các cuộc chiến tranh
phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến. Nhân dân cơ cực, lầm than.
1.2.2.2. Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp sáng
tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Cuộc đời: Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 –
1585), húy Văn Đạt, tên chữ Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ là nhà văn hóa tiêu
biểu của Việt Nam thế kỉ XVI. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho
học. Tư chất thông minh, kết hợp với môi trường giáo dục cơ bản đã hình
thành nên một tài năng, nhân cách lớn của dân tộc.
- Sự nghiệp văn học: Về
chữ Hán gồm: Bi kí quán Trung Tân, Thạch khánh ký, Bạch Vân am thi tập. Về chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Nội dung thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng
đến chất triết lý và tính giáo huấn.
1.2.2.3. Bạch Vân
quốc ngữ thi tập
Bạch Vân quốc ngữ thi tập được sáng tác trong thời kỳ ông đã quy ẩn bên dòng Tuyết Giang. Tập thơ đã
thể hiện nổi bật một số đề tài: Cuộc sống nhàn dật; tâm sự trước sự suy tàn của
xã hội, đạo đức phong kiến phong kiến; khuyên răn, giáo huấn; suy ngẫm về bổn
phận với vua, với nước …
1.3. Vấn đề tồn nghi về văn bản Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập
Hai tập thơ Quốc âm
thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập
có sự trùng lặp một số bài thơ. Kế thừa
kết quả khảo sát của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi xác định được 29
bài thơ trùng lặp giữa hai văn bản (phụ lục 1). Do vậy, để đảm bảo tính khách quan cho việc thực hiện đề tài,
chúng tôi sẽ tạm để các bài thơ trùng lặp đó ngoài phạm vi nghiên cứu.
* Tiểu kết
Tư tưởng “nhàn” là
một phương thức ứng xử trước hiện thực xã hội của nhà nho. Tư tưởng này có
nguồn gốc từ bản chất của các hệ tư tưởng Nho – Đạo – Phật, kết hợp với những
đặc điểm xã hội, thời đại, cuộc đời của mỗi tác giả đã tạo những biểu hiện khác
nhau.
Cuối
thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV là một thời kì khá phức tạp trong lịch sử Việt Nam. Sống
trong thời đại ấy, Nguyễn Trãi đã đã gặp phải biết bao bi kịch. Điều đó là
nguyên nhân dẫn dắt ông đã tìm về với tư tưởng “nhàn dật”.
Bước sang thế kỉ
XVI, xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Thực trạng
bi thương ấy cũng đã khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm đến tư tưởng “nhàn dật” như
một triết lý sống trong thời đại loạn lạc.
Chương 2
“NHÀN” TRONG QUỐC ÂM THI TẬP – QUAN NIỆM SỐNG
CỦA CÁI TÔI CÔ ĐƠN
2.1. Thơ “Nhàn” Nguyễn Trãi – sự tiếp nối mạch nguồn thơ
“nhàn” trung đại
2.1.1. Người ẩn sĩ và cuộc sống điền
viên, đạm bạc
Trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã thể hiện
hình ảnh một ẩn sĩ sống trong quan hệ gắn bó mật thiết với thiên nhiên, tận
hưởng thú vui của cuộc sống “nhàn dật”. Trong tập thơ, chúng tôi nhận thấy
những hình ảnh “Căn lều”, “am”, “hiên”, “đình”, “viện”, “thư trai”, “lâm tuyền”, “thôn dã”, “ruộng vườn”, “đìa, ao”...
xuất hiện với mật độ dày đặc (90/ 225 bài). Với những hình ảnh đó, không gian
sống của người ẩn sĩ được miêu tả trong sự thanh sạch, tĩnh lặng, đối lập hoàn
toàn với cái ồn ào, gấp gáp, tranh giành chốn quan triều. Đó chính là môi
trường sống lí tưởng của người ẩn sĩ để thực hiện vấn đề “độc thiện kì thân”.
Từ giã quan
trường bụi bặm, Nguyễn Trãi tìm về nơi ruộng vườn, thôn dã, sống cuộc đời hồn
hậu của một dật dân thực thụ “Một cày một
cuốc thú nhà quê”, đặt mình vào một nền kinh tế tự cung, tự cấp “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực” vô
cùng đơn sơ, đạm bạc, sống trong tình bạn ấm áp với trúc, thông, trăng, hoa,
viên hạc...
2.1.2. Người ẩn sĩ say đắm
những thú chơi tao nhã, thanh cao
Trong hành trình
về với cuộc sống ẩn dật, người ẩn sĩ coi thường dục vọng về ăn, ở, mặc, về tiền
bạc, danh lợi... và đề cao những thú vui tinh thần, tao
nhã, thanh cao. Ông coi đó cũng là một phương cách để “cởi tục”, “tìm thanh”
khẳng định cốt cách thanh cao, hướng đến thực thi cuộc sống “nhàn dật”.
2.1.3. Người ẩn sĩ đối lập, xa
lánh những đua chen chốn quan trường
Sự đối lập giữa
lợi danh và “nhàn dật” được Nguyễn Trãi thể hiện một cách sắc nét: 39/225 bài (phụ
lục 2). Bằng các cặp hình tượng: “công danh” – “nhàn tự tại”, “cửa quyền”
– “thanh nhàn”, “công danh” – “cần câu”...
Nguyễn Trãi vẽ ra hai không gian sống đối lập: Thế giới của khổ đau –
thế giới của hạnh phúc. Từ đó làm nảy sinh hai
thế ứng xử: với chốn quan quyền, ông “ngại
thung thăng”, “ngại chen chân”… Với
công danh, phú quý thì ông “biếng vả vê”,
“biếng đôi tranh”, “lòng đà ắt dửng dưng”... Còn với cuộc
sống “nhàn”, Nguyễn Trãi thể hiện một khát vọng chiếm lĩnh mãnh liệt. Khi
đặt giữa hai sự lựa chọn: công danh hay “nhàn dật”, ông sẵn sàng “Đem công danh đổi lấy cần câu”.
Tư tưởng “nhàn” của Nguyễn Trãi là kết
quả của sự kế thừa truyền thống thơ “nhàn” trung đại. Tuy nhiên, đến thơ Nôm
Nguyễn Trãi, “nhàn” trở nên dân dã hơn,
gần gũi hơn với điệu hồn dân tộc.
2.2. Chữ “nhàn” – Nơi ẩn chứa những nỗi niềm riêng tư của
Nguyễn Trãi
2.2.1. “Nhàn” là một mặt của những mâu thuẫn trong con người
Nguyễn Trãi
Hình tượng cái tôi trữ tình trong Quốc
âm thi tập xuất hiện với hai con người hoàn toàn trái ngược: một nhà nho ẩn
dật và một nhà nho hành đạo đang trăn trở khôn nguôi giữa hai bề xuất – xử. Hai con người đó xuất hiện
trở đi trở lại trong 225 bài thơ Quốc âm
thi tập như một nỗi niềm day dứt lớn.
Trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thống kê được
21 bài thơ thể hiện mâu thuẫn xuất – xử (phụ lục 5). Trong những bài thơ dạng
này, cái tôi trữ tình mang những tâm trạng phức tạp. Khát khao sống “nhàn”
nhưng lại day dứt về lý tưởng hành đạo. Ngay cả khi hết mực ca tụng thú thanh
nhàn nhưng chung cục, Nguyễn Trãi vẫn khẳng định nghĩa “quân thân” là một tâm sự cháy bỏng, sẽ còn mãi dậy sóng “cuồn cuộn”, nhức nhối trong trái tim đầy
nhiệt huyết của ông. Với Nguyễn Trãi, nghĩa “quân thân”, “lòng ưu ái”
không chỉ là nghĩa vụ, là lý tưởng của nhà nho mà được đặt ra một cách da diết,
thống thiết hơn bất kỳ ai! Ông khẳng định “niềm
trung hiếu” với triều đình, với dân tộc là “biêu cả” – mục tiêu lớn của cuộc đời ông.
Điều này được lí giải từ mối quan hệ gắn bó máu thịt, tâm huyết của Nguyễn
Trãi với nhà Lê. Như vậy, dù Nguyễn Trãi có hết lòng ca tụng thú thanh nhàn thì
với ông “nhàn” chỉ mãi là một khát vọng chưa đạt được mà thôi.
2.2.2. “Nhàn” là một sự lựa chọn bất đắc dĩ của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi dù đã tìm về cuộc sống
“nhàn” nhưng vẫn mang một nỗi niềm day dứt khôn nguôi vì cho rằng mình đã sống
uổng phí thân nhàn, uổng phí cuộc đời. Trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thống kê được 19 bài thơ thể hiện tâm
trạng buồn chán, bất đắc chí khi buộc phải sống “nhàn” của Nguyễn Trãi (phụ lục
3). Nguyên nhân của những tâm trạng đau đớn, giằng xé ấy xuất phát từ hàng loạt
những bi kịch mà ông đã phải trải qua.
Trong nỗi đau đớn
khôn nguôi của một tài năng bị kiềm tỏa, một khát vọng bị vùi dập, Nguyễn Trãi
tự nhận mình là “hèn”, là kém cỏi và
xót xa cho công lao sinh thành giáo dưỡng của cha mẹ. Ông cho rằng sống “nhàn”
là đã “phụ triều đình”, “phụ nhà” và đó là cái tội lớn của người
quân tử. Cô đơn và bất lực, Nguyễn Trãi không còn lựa chọn nào khác là trở về
Côn Sơn sống cuộc đời “nhàn dật”. Có lẽ, đây là con đường duy nhất để giữ gìn
phẩm tiết, để an ủi trái tim cô đơn.
Tìm đến thiên nhiên như một niềm an ủi, cũng có những khoảnh khắc, Nguyễn
Trãi tìm được niềm vui thực sự nhưng cũng có khi chỉ là một thứ “vui gượng”.
Trong những lúc bất đắc dĩ phải sống “nhàn” ấy, Cuộc sống “nhàn dật” được
Nguyễn Trãi miêu tả như một cách phản ứng với cuộc đời, một “cách nói dỗi”, một
sự gồng mình chống chọi với những nỗi đau đời, một giải pháp để xoa dịu, an ủi
trái tim đang tổn thương.
2.2.3. “Nhàn” – một giải pháp an ủi trái tim cô đơn
Trải qua những năm tháng cuộc đời với biết bao bi kịch, trái tim nhạy cảm
của Nguyễn Trãi thấm đẫm nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Vì vậy, dù trong lòng ông,
khát vọng hành đạo còn trào dâng mãnh liệt nhưng ông chỉ còn một sự lựa chọn
duy nhất là trở về với cuộc sống “nhàn dật” như một giải pháp an ủi trái tim
đang tổn thương, rỉ máu của mình.
Trong Quốc
âm thi tập, nhân vật trữ tình nhiều khi xuất hiện với hình ảnh “tuổi già”, “tóc bạc”. Sự xuất hiện của những hình ảnh này như một biểu tượng
cực tả sự mệt mỏi, chán chường của Nguyễn Trãi trước cuộc đời. Với tâm trạng buồn tủi, Nguyễn Trãi tự ví mình như
một “khách tha hương” lạc loài, bơ vơ nơi đất khách quê người xa xôi “ngàn dặm”, khát khao trở về “gia sơn”, “cố sơn”. Với Nguyễn Trãi, “gia sơn”, “cố sơn”, là
một điểm hẹn lý tưởng cho ước vọng trở về. Đó là một khát vọng thường trực
trong tâm hồn ông. Trong Quốc âm thi tập,
chúng tôi thống kê được 30 bài thơ thể hiện khát vọng sống “nhàn” của Nguyễn
Trãi (phụ lục 4).
Trong
hoài niệm tha thiết, cuộc sống tiêu dao, tự tại nơi cảnh cũ, non quê được
Nguyễn Trãi vẽ nên vô cùng tươi đẹp, lý tưởng. Trong thế so sánh không gian
hiện thực – nơi “cửa quyền hiểm hóc”
và không gian trong hoài niệm – “gia sơn”,
“cố sơn”, trái tim mang đầy vết
thương đau của Nguyễn Trãi lại vang lên những câu hỏi thống thiết “Ta còn lẵng đẵng làm chi nữa”. Những câu
hỏi ấy vang lên như một sự chối từ chốn quan trường đầy hiểm hóc, đồng thời thể
hiện khát khao về một cuộc sống nhàn tản, ưu du, khát khao trở về làm bạn với
yên, hoa, phong, nguyệt.
Tóm lại, “nhàn
dật” trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là một tư tưởng mang tính cá nhân. Tư tưởng này
là kết quả được rút ra từ những chiêm nghiệm của Nguyễn Trãi về chính cuộc đời
đắng cay, bi kịch của mình. Vấn đề sống “nhàn” với Nguyễn Trãi, một mặt được
đặt ra thống thiết như một nhu cầu, một giải pháp để giải tỏa những uẩn ức, an
ủi trái tim cô đơn, tuyệt vọng. Mặt khác nữa, sống “nhàn” lại là một nỗi day
dứt khôn nguôi giữa hai bề xuất – xử.
* Tiểu kết
Tư tưởng “nhàn
dật” của Nguyễn Trãi là sự tiếp nối dòng mạch của tư tưởng “nhàn dật” trong văn
học trung đại. Tư tưởng này được thể hiện qua hình tượng người ẩn sĩ trong mối
quan hệ với thiên nhiên, với những thú chơi tao nhã và ý thức đối lập với công
danh, phú quý.
Với
Nguyễn Trãi, tư tưởng “nhàn dật” mới chỉ dừng lại như một quan niệm sống cá
nhân được đúc rút từ chính cuộc đời ông và cũng được sử dụng như một giải pháp
để điều hòa cuộc sống, an ủi trái tim cô đơn của ông.
Chương 3
“NHÀN” TRONG BẠCH VÂN
QUỐC NGỮ THI TẬP – TRIẾT LÝ SỐNG GIỮA THỜI LOẠN
3.1. Dấu ấn thơ “nhàn” trung đại trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm
3.1.1. Hòa hợp với thiên nhiên thanh sạch
Cũng như các nhà nho ẩn dật tiền bối, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
lựa chọn cuộc sống ẩn dật, hòa hợp với thiên nhiên, coi đó như là một môi
trường sống lí tưởng. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, cái tôi trữ
tình được thể hiện qua hình tượng người ẩn sĩ với tư thế ung dung, tự tại, một
“ông nhàn” đang cố gắng hòa
tan cái bản ngã của mình vào thiên nhiên tạo vật trong một niềm thích thú cực
điểm. Trong trạng thái tinh thần đầy lạc thú ấy, “ông nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về bầu bạn những thú chơi tao nhã,
những chén rượu, câu thơ, trăng thanh gió mát....
Không chỉ
tiêu dao với những thú vui tao nhã, “ông
nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm còn phác họa một bức tranh cuộc sống “nhàn dật” giản
dị, dân dã với những “xôi măng trúc”,
“canh cua rốc”, những “cơm vàng”... đạm bạc. Với ông, cuộc sống
an bần lạc đạo cũng có thú vị riêng. Đó là cái đạm bạc trong sự sang trọng. Tuy
thiếu thốn về vật chất nhưng lại đạt được sự giàu sang trong tâm hồn. Đó là chân
giá trị mà nho mong đạt được.
3.1.2.
“Nhàn” trong xu thế đối lập công danh, phú quý
Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chúng tôi
thống kê được 16 bài thơ thể hiện sự đối lập giữa “nhàn dật” và công danh, phú
quý (phụ lục 7). Đúc kết những trải nghiệm trong cuộc đời ẩn dật, cũng như thời
gian ở chốn quan trường, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thức sâu sắc sự ảo hóa của danh
lợi, phú quý. Cũng giống như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt “nhàn dật” và
công danh phú, quý trong thế đối lập nhau, biểu trưng cho sự đối lập giữa thanh
cao và phàm tục. Hai thế giới đối lập ấy được ngăn cách bởi một bức tường vô
hình. Đó là khí tiết của nhà nho.
Tóm lại, trong
hành trình chạy tiếp sức, thơ “nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa truyền thống thơ
ca “nhàn dật” ở các biểu hiện: trở về với thiên nhiên, ngợi ca cuộc sống an bần
lạc đạo, đối lập với công danh.
3.2. “Nhàn” – triết lý sống của con
người trong thời loạn
3.2.1. Triết lý “vô sự” của Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Chiêm
nghiệm cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy tất cả những biến động tang
thương, loạn lạc đều bắt nguồn từ lòng tư dục của con người. Từ đó, ông đưa ra triết lý sống “nhàn”, “vô sự” và xem đó
như một lối thoát, một con đường để kiếm tìm hạnh phúc. Ông khẳng định cuộc
sống đó là một cuộc sống thực sự hạnh phúc, con người đạt đến cõi lòng “vô sự”
là những bậc tiên nhân đã diệt hết mọi khổ đau của cuộc đời thế tục.
Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, cái tôi trữ
tình thể hiện qua hình tượng người ẩn sĩ mang phong cốt tiêu dao, tiêu sái
trong một niềm hạnh phúc thực sự. Chúng tôi
đã thống kê được 37 bài thơ thể hiện cảm xúc vui sướng, hạnh phúc khi hòa mình
vào thú vui “nhàn dật” (phụ lục 6). Ở những bài thơ đó, ông sử dụng một loạt
câu thơ, từ ngữ, hình ảnh, những so sánh để cực tả niềm hạnh phúc, sự mãn
nguyện. Qua lăng kính của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cuộc sống “nhàn dật” hiện lên tràn
ngập những “hứng ý”, “vui”, “mừng”, “tiêu sái”... Con
người sống “nhàn” được ví với “tiên vô sự”, “tiểu thần tiên”, “tiên khách”....
Miêu tả, ngợi
ca cuộc sống “nhàn”, “vô sự” trong Bạch
Vân quốc ngữ thi là một sự tiếp nối truyền thống. Tuy nhiên, cũng cần phải
khẳng định, đó là một sự kế thừa và phát triển. Cuộc sống thanh nhàn, “vô sự”
trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm là một cuộc sống mà ở đó con người đạt được
niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn thực sự. Điều mà các nhà Nho trước đó chưa tìm
được.
Cơ sở lý
luận của triết lý “vô sự” mà nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương có nguồn gốc từ tư
tưởng triết học cổ phương Đông, tiêu biểu tư tưởng “thiên mệnh” và quy luật “âm
dương tiêu trưởng” trong triết học Tống Nho. Trong
Bạch Vân quốc ngữ thi, chúng tôi
thống kê được 26/132 bài thơ (19,69%) thể hiện tư tưởng “thiên mệnh” (phụ lục
8), 14/132 bài thơ (10,6%) trực tiếp thể hiện quy luật “âm dương tiêu
trưởng” (phụ lục 10). Trong 14 bài thơ thể
hiện quy luật âm dương, hàng loạt các cặp từ thể hiện các mặt đối lập trong quy
luật âm dương: Giàu – khó, vinh
– nhục, thua – được, suy – thịnh, lành – dữ, khôn
– dại, bĩ – thái, cạn – sâu... được sử dụng với mật độ cao (28 cặp đối lập). Vận dụng những
hiểu biết lý học Tống Nho vào chiêm nghiệm cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang
cho thơ ca của mình chất triết lý sâu sắc. Nhưng, cũng cần phải khẳng định,
không phải chỉ riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng của những tư tưởng này.
Những lý thuyết huyền bí về “thiên mệnh”, về âm dương đã chi phối tư tưởng của
hầu hết các tầng lớp trí thức xuất thân cửa Khổng sân Trình. Trước Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Trãi cũng đã nói đến vấn đề “thiên mệnh”, quy luật tiêu trưởng.
Tuy nhiên, ở Nguyễn Trãi những tư tưởng này xuất hiện chưa đủ để mang đến chất
triết lý cho thơ. Trong Quốc âm thi tập,
chúng tôi thống kê được 14/225 bài thơ (6,22%) thể hiện tư tưởng “thiên mệnh”
(phụ lục 9), 5/225 bài thơ (2,2%) thể hiện quy luật âm dương tiêu trưởng (phụ
lục 11). Như vậy, so với thơ Nôm Nguyễn Trãi thì trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm, chất triết lý được thể hiện sâu sắc hơn.
Từ cơ sở
lí luận đó, đối chiếu vào thực tế xã hội Việt Nam thế kỉ XVI, ông nhận thấy số
phận con người mong manh ảo hóa, công danh, phú quý tựa giấc chiêm bao. Từ đó,
ông chủ trương lối sống “nhàn dật” với hạt nhân là triết lý “vô sự” và xem đó
như một lối thoát, một con đường để kiếm tìm hạnh phúc
Với triết lí “vô
sự”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nâng tư tưởng “nhàn dật” lên tầm vóc một triết lý
sống. Nếu như ở Nguyễn Trãi, tư tưởng này mới chỉ mang tính vi mô, xuất phát từ
những bi kịch cuộc đời cá nhân và đặt ra như một quan niệm sống, một nhu cầu
giải tỏa những ẩn ức cá nhân thì đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng “nhàn dật” đã
mang tầm vĩ mô, tính xã hội cao. Tư tưởng này được hình thành từ một thế giới
quan có hệ thống – Triết học Tống Nho, kết hợp với những trải nghiệm từ thực tế
loạn lạc của xã hội Việt Nam thế kỉ XVI. Trong thời đại loạn li, triết lý “nhàn
dật” với hạt nhân “vô sự” được đặt ra như một giải pháp, một hướng đi để hóa
giải nguồn gốc của chiến tranh, tư dục, xây dựng một cuộc sống “trung dung”,
“dĩ hòa vi quí”.
3.2.2. “Nhàn”, “vô sự” - chuẩn tắc đạo đức
trong thời loạn
Trong
bức tranh toàn cảnh lịch sử Việt Nam, thế kỉ XVI được biết đến là thế kỉ của
chiến tranh, đói khổ triền miên. Xã hội rơi vào vực thẳm của loạn lạc. Khói lửa
chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến Lê – Mạc, Lê – Trịnh – Nguyễn kéo dài
hơn một thế kỉ (1533 – 1672) đã nhấn chìm nhân dân vào vũng bùn lầy của đói
khổ, tang tóc, bi thương, kéo đạo đức xã hội xuống hố sâu của sự suy đồi, tha
hóa.
Bằng những chiêm
nghiệm cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thấy rõ ràng những rạn nứt, đổ vỡ của đạo
đức trong lòng xã hội đương thời. Tất cả những giường mối, chuẩn tắc đạo đức mà
Nho giáo đề ra để giữ gìn kỉ cương, luân thường, đạo lý dường như không còn ý
nghĩa trước một xã hội đảo điên chạy theo lợi danh, tiền bạc. Tuy nhiên, với
tầm nhìn của một triết nhân, ảnh hưởng nhân sinh quan triết học Tống Nho, Nguyễn
Bỉnh Khiêm vẫn đặt niềm tin vào tính “thiện” vốn có của con người. Từ đó, ông chủ
trương lối sống “nhàn” như một chuẩn tắc, bài học đạo đức để diệt lòng tư diệt
dục.
Bài học đạo đức
thứ nhất: đề cao sống sống tri túc, an phận, yên phận là “vui”, là “hơn hết mọi điều”.
Lối sống tri túc, yên phận mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương, về mặt lý thuyết là
tiêu cực. Tuy nhiên, ứng dụng vào bối cảnh xã hội đương thời thì lối sống ấy sẽ
hạn chế được một phần nào những cảnh tranh giành, đổ máu.
Bài học đạo đức
thứ hai: đề cao lối sống xem nhẹ công danh, phú quý, coi “nhàn dật” và cõi lòng
“vô sự” là niềm vui, là đáng trân trọng. Thực tế, Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải
là người đầu tiên nêu vấn đề này. Tuy nhiên, phải đến ông với mong ước chữa căn
bệnh tham công danh cố hữu trong xã hội mà vấn đề này đã được nâng lên như một
chuẩn tắc đạo đức cho toàn xã hội chứ không còn là độc quyền của tầng lớp nhà
nho nữa.
Bài
học đạo đức thứ ba, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương lối sống “trung dung”, “dĩ hòa
vi quý” như một phương cách cần thiết để hạn chế những cuộc chạy đua quyền lực
của giai cấp thống trị, hạn chế những giành giật trong xã hội. Ông mong muốn
con người hãy sống hòa hiếu, yêu thương, đừng tranh giành hơn thua.
Như vậy, đến thơ
Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng “nhàn dật” đã mang tầm vĩ mô, tính xã hội cao,
trở thành một triết lý sống có cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đầy đủ. Trong
thời đại loạn li, triết lý “nhàn dật” với hạt nhân “vô sự” được đặt ra như một
giải pháp, một hướng đi của con người để hóa giải nguồn gốc của chiến tranh, tư
dục, xây dựng một cuộc sống cân bằng, “trung dung”, “dĩ hòa vi quí”.
Tóm lại,
có thể khẳng định, tư tưởng “nhàn dật” đã có sự vận động, phát triển từ việc
đặt ra như một quan niệm sống của con người cá nhân ở trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
đến triết lý sống, một chuẩn tắc hành xử giữa thời loạn trong thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Sự vận động này có thể được giải thích bằng nhiều nguyên nhân.
Nhưng dưới cái nhìn xã hội học, chúng tôi cho rằng chính sự thay đổi những đặc
điểm xã hội của hai thời đại đã dẫn đến sự vận động trong tư tưởng của hai đại
thi hào. Như đã biết, Nguyễn Trãi sống vào giai đoạn cuối thế kỷ XIV, đầu thế
kỷ XV. Đây là giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam có những biến động lớn lao,
phức tạp. Bức tranh toàn cảnh của thời kỳ ấy có tranh giành thoán đoạt quyền
bính, có nạn ngoại xâm, có chiến tranh đổ máu, nhưng với sự ra đời của một
triều đại mới - nhà Lê sơ, xã hội dần đi vào quỹ đạo của sự ổn định và phát
triển, Nho giáo bắt đầu phát triển mạnh mẽ và đạt đến cực thịnh đưới thời Lê
Thánh Tông (1442 - 1497). Vì vậy, dưới con mắt của một nhà nho ưu thời mẫn thế,
Nguyễn Trãi nhìn thấy tính tích cực ở thời đại ấy. Từ đó ông đặt niềm tin và
vẫn không nguôi khát vọng cống hiến. Việc Nguyễn Trãi cáo quan, tìm về sống
cuộc đời ẩn dật chỉ là một hướng đi, một lựa chọn bất đắc dĩ để giải thoát
những bi kịch cá nhân mà thôi. Bước sang thế kỷ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam
rơi vào khủng hoảng, bế tắc trầm trọng, những cuộc chiến tranh cát cứ huynh đệ
tương tàn diễn ra liên miên, đời sống nhân dân cực khổ lầm than, đạo đức phong
kiến suy đồi... Toàn xã hội rơi vào bi kịch khủng khiếp. Trong thời đại đen tối
và chưa có lối thoát ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy nguồn gốc dẫn đến xã hội
loạn lạc ấy xuất phát từ lòng tư dục. Từ đó, ông chủ trương lối sống “nhàn” như
một phương thuốc để cứu vãn toàn xã hội. Mang tính phổ quát, tính xã hội cao,
lại xuất phát từ thế giới quan có hệ thống của triết học Tống Nho, tư tưởng
“nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được phát triển trở thành triết lý sống
trong thời loạn.
Triết lý “nhàn dật” của Nguyễn Khiêm là một thành tựu
trong nỗ lực tìm đường đi cho xã hội. Trong thời đại loạn lạc, tư tưởng này đã
thể hiện được khát vọng xây dựng một xã hội có trật tự theo mô hình Nho giáo.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, khoa học, cần phải khẳng định: khi tư
tưởng “nhàn dật” phát triển trở thành một triết lý sống thì cũng là lúc nó bộc
lộ tính không tưởng. Bởi áp dụng tư tưởng “nhàn dật” trở thành triết lý sống,
chuẩn tắc đạo đức cho toàn xã hội, đặc biệt xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ
XVI là một điều không thể. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định cái đáng trân trọng ở
Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở nỗ lực cứu vãn xã hội đương thời và tấm lòng ưu ái mà
ông dành cho nhân quần, cho dân tộc.
* Tiểu kết
Tư tưởng “nhàn
dật” trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự tiếp nối, phát triển tư tưởng “nhàn
dật” trong thơ ca trung đại. Tiếp thu truyền thống trở về sống giữa thiên
nhiên, tìm kiếm thú vui trong cuộc sống ẩn dật, từ bỏ công danh, phú quý,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện một phong thái ung dung, nhàn tản đến cực điểm,
một phong thái “ông nhàn” hiếm có
suốt chiều dài mười thế kỉ văn học trung đại Việt Nam.
Kế thừa truyền
thống tư tưởng “nhàn dật” trong văn học trung đại, kết hợp với sự am hiểu triết
học Tống Nho, đặc biệt Kinh Dịch và những chiêm nghiệm thời thế, tư tưởng “nhàn
dật” ở Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có sự vận động, phát triển. Từ quan niệm sống của
một vài cá nhân, của tầng lớp Nho sĩ, tư tưởng “nhàn dật” đã trở thành triết lý
sống, chuẩn tắc đạo đức của thời đại dựa trên một thế giới quan có hệ thống. Triết
lý ấy đã thể hiện được nỗ lực cứu vãn xã hội đương thời của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đó là điều đáng trân trọng.
KẾT LUẬN
1. Tư tưởng “nhàn dật” được xem như phương
thức ứng xử trước hiện thực xã hội biến động, suy đồi, một thứ “minh triết bảo
thân” của tầng lớp nho sĩ. Tư tưởng này có gốc rễ từ trong bản chất của các hệ
tư tưởng Nho – Đạo – Phật, kết hợp với điểm xã hội, thời đại, và cuộc đời của
mỗi tác giả tạo thành các sắc diện khác nhau
Sự xuất hiện của tầng
lớp ẩn sĩ và thơ điền viên Trung Hoa đã ảnh hưởng không nhỏ đến thơ “nhàn” trung
đại Việt Nam. Tuy nhiên, chữ “nhàn” trong văn học của các nho sĩ Việt còn mang
nặng ý thức về nghĩa “quân thân”, dù đã tìm về cuộc sống “nhàn dật” nhưng dường
như trong thâm tâm họ vẫn còn canh cánh một nỗi niềm ưu ái dành cho đất nước.
2. Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm là hai
nhà văn hóa, tư tưởng lớn, tiêu biểu cho hai giai đoạn kế tiếp trong lịch sử xã
hội phong kiến Việt Nam. Nhìn một cách tổng quát, có thể khẳng định, tư tưởng “nhàn
dật” trong văn chương của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều có những yếu tố
kế thừa tư tưởng “nhàn dật” của các nhà nho ẩn dật trước đó. Sự kế thừa thể
hiện ở việc Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều lựa chọn thiên nhiên, cuộc
sống điền viên dân dã làm môi trường sống lí tưởng, ca tụng thú thanh nhàn, đối
lập với cuộc sống danh lợi, phú quý.
Tư tưởng “nhàn dật” từ thơ Nôm Nguyễn Trãi
đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có sự vận động theo chiều hướng từ vấn đề quan
niệm sống của con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi đến vấn đề triết lí sống
của thời đại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Sự vận động tư tưởng “nhàn dật” từ thơ
Nôm Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể được xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên theo chúng tôi, nguồn gốc chủ yếu của sự vận
động ấy là do những biến thiên lớn lao của bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam giữa
hai thế kỉ XV, XVI. Đầu thế kỉ XV, lịch sử dân tộc có nhiều biến động khá phức
tạp. Tuy nhiên, với sự ra đời của triều đại mới - nhà Lê, đất nước dần đi vào quỹ đạo của sự ổn
định và phát triển. Với nhãn quan của một thiên tài, Nguyễn Trãi tất yếu nhìn thấy
tính tích cực của thời đại bấy giờ. Vì vậy, trái tim ông vẫn luôn trào dâng
khát vọng cống hiến. Việc Nguyễn Trãi tìm đến cuộc sống “nhàn dật” là xuất phát
từ bi kịch của cuộc đời ông. Bước sang thế kỉ XVI, xã hội rơi vào tình cảnh bi
thương, loạn lạc. Bi kịch lúc này không còn là của một vài cá nhân mà là của
toàn xã hội. Chứng kiến, chiêm nghiệm cuộc đời, kết hợp với sự am hiểu thuyết
‘thiên mệnh”, quy luật “âm dương tiêu trưởng” trong triết học Tống Nho, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã nâng tư tưởng “nhàn” trở thành một triết lý sống, một chuẩn mực đạo
đức định hướng hành vi của con người trong thời loạn với mong ước cứu vãn toàn
xã hội.
4. Tư tưởng “nhàn
dật” là một hiện thực trong bức tranh tư tưởng của tầng lớp nho sĩ, đồng thời
cũng là một phương diện nội dung khá nổi bật trong các sáng tác văn học trung
đại Việt Nam. Tư tưởng này không chỉ thể hiện ở Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm
mà còn tiếp tục ăn sâu vào tư tưởng của các nhà nho giai đoạn cuối thế kỉ XIX
như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến. Nếu có điều kiện, chúng tôi mong muốn sẽ
tái hiện một cách hoàn chỉnh bức tranh tư tưởng “nhàn dật” với sự vận động,
phát triển, biến đổi, suy thoái trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét